Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Đại Hồi Hướng

01 Tháng Ba 201512:02(Xem: 12919)
Kinh Đại Hồi Hướng
KINH ĐẠI HỒI HƯỚNG


Việt Dịch: Thích Thiện Trì

(Bản chữ Hán thất dịch danh, Đại Tạng quyển 33, Kinh Tập bộ tứ, số 825, trang 827)


Kinh Đại Hồi HướngN
hư thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng tám ngàn vị Tỳ kheo vân tập ở vườn cây của Trưởng giả Cấp Cô ĐộcThái tử Kỳ Đà (*) tại nước Xá vệ. Lúc bấy giờ cả đại chúng lớp lớp trước sau quây quần quanh Thế Tôn, nghe Thế Tôn thuyết pháp. Trong khi đó có một vị Bồ Tát hiệu Minh Thiên ở giữa pháp hội từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, quỳ gối bên phải sát đất, cung kính chắp tay bạch Phật rằng;

Kính bạch Thế Tôn! Con có một điều muốn thưa hỏi, mong Thế Tôn từ bi chỉ dạy.

Phật bảo Bồ Tát Minh Thiên rằng:

Thiện nam tử! Có điều chi ông cứ hỏi, chớ có nghi ngại Như Lai sẽ tuỳ tiện mà giải đáp.

Bồ Tát Minh Thiên liền bạch Phật:

Bồ Tát làm cách nào chỉ tu chút ít pháp lành mà được phước quả lớn và nếu làm nhiều việc công đức thì được phước quả vô lượng ?

Phật đáp: Hay thay! Hay thay! Này Minh Thiên, ông đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo trồng rất nhiều công đức, gần gũi các bậc thiện tri thức, và đã vì chúng sanh ưa tu phước đức mà hỏi lên những điều sâu xa như thế. Vậy ông hảy lắng nghe, lắng nghe, và khéo suy nghĩ kỹ.

Bồ Tát Minh Thiên bạch Phật rằng: Kính bạch Thế Tôn con xin thọ giáo.

Phật bảo: Minh Thiên! Đối với chư Phật quá khứ, hiện tạivị lai, các đại Bồ Tát nên tu hạnh từ về thân, tu hạnh từ về miệng, tu hạnh từ về ý, chuyên tâm niệm các công đức mà chư Phật từng làm.

Lại nữa, này Minh Thiên ! Bồ Tát cần nên đi đến các chùa, tháp, tôn miếu, những nơi có thờ Phật, để lễ bái cúng dường, đi quanh bên phải, quì gối chắp tay, dâng hoa, đốt hương, treo tràng phan, bảo cái, trổi nhạc cung kính cúng dường. Dùng âm thanh vi diệu ca tụng những câu kinh kệ nghĩa lý thậm thâm. Tán dương công đức chư Phật. Tuỳ hỷ khuyến khích, ca ngợi các thiện.

Minh Thiên ! Thế nào là Bồ Tát đoái với chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai tu hạnh từ về thân, tu hạnh từ về miệng, tu hạnh từ về ý và niệm công đức của chư Phật?

Thiện nam tử! Bồ Tát nên nghĩ rằng: Như Lai là bậc Vô Thượng, là bậc Tối Tôn, là bậc Tối Thắng, là bậc Sư tử Vương dũng mãnh không sợ sệt. Tự cứu độ mình, cứu độ mọi loài, tự mình an vui, đem an vui cho kẻ khác, tự mình diệt trừ khổ não, diệt trừ khổ não cho kẻ khác, thuyết pháp chơn đế, giáo hoá chúng sanh, giới đức thanh tịnh đầy đũ hoàn toàn, năng lực biện tài không hề sợ sệt. Vĩnh viễn dứt trừ tập khí chướng ngại. Tự tại vô ngại trước mọi hoàn cảnh và mọi sự vật không ai sánh bằng, Chuyên tâm niệm công đức của chư Phật như vậy, rồi quì xuống đất dâng hoa hương, tràng phan bảo cái, trổi nhạc cúng dường. Đó là Bồ Tát tu hạnh từ về thân.

Dùng âm thanh vi diệu ca tụng những câu kinh kệ nghĩa lý thậm thâm. Tán thán vô lượng công đức của Như Lai. Đó là Bồ Tát tu hạnh từ về miệng. Với căn lành tu niệm nơi thân khẩu nói trên mà hết lòng chí thành cung kính. Đó là Bồ Tát tu hạnh từ về ý.

Minh Thiên ! Ấy là Bồ Tát đối với chư Phật quá khứ , hiện tại, vị lai, chánh niệm tu tập hạnh từ về thân miệng ý.

Phật lại bảo Bồ Tát Minh Thiên rằng:

Lại nữa, Bồ Tát đối với chúng sanh quá khứ , hiện tại, vị lai cũng nên tu hạnh từ về thân, tu hạnh từ về miệng, tu hạnh từ về ý, quan niệm bình đẳng đối với chúng sanh.

Minh Thiên ! thế nào là Bồ Tát đối với chúng sanh trong ba thì gian nên tu hạnh từ về thân, miệng, ý và quan niêm bình đẳng.

Như vầy, Minh Thiên ! Bồ Tát không sát hại chúng sanh, không trộm cắp của kẻ khác, không tà dâm, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói hung dữ, không tham lam, không giận hờn, không si mê tà kiến.

Thế nào là Bồ Tát không hại chúng sanh ?

Đối với tất cả chúng sanh, từ bi thương xót và sanh lòng hổ thẹn, đau đớn trước hành động giết hại, vất bỏ cả dao gậy, những khí cụ đánh đập, đâm chém, bắn giết.

Không trộm cắp nghĩa là thấy của rơi giữa phố chợ, xóm làng, ngoài đường, bất hoặc ở nơi nào không người, nếu không phải vật của mình thì không bao giờ lượm. Vật gì của ai, không cho thì không lấy.

Không tà dâm (là nói với Bồ Tát tại gia, nếu Bồ Tát xuất giađoạn dâm) nghĩa là nam nữ đã có chồng vợ thì không được ngoại tình, cả với những người còn lệ thuộc gia đình nếu chưa có lễ nghi hợp thức thì không được xâm phạm, cho chí nếu người khác phái cầm đưa vật gì thì cũng không nên móng dục tình.

Không nói dối nghĩa là luôn luôn nói ngay thực , không khi nào chuyện có nói không chuyện không nói có, khi đối với hương lân làng xã hoặc đứng trứơc quan chức, pháp toà đối chứng việc gì, nên chơn thành khai nói đúng với sự thật, dù phải chịu chết cũng đành, chứ không nói dối.

Không nói thêu dệt nghĩa là nói đúng lúc, nói chơn thật, biết rõ nghĩa lý mới nói, vì lợi ích kẻ khác mà nói, lòng nghĩ sao miệng nói vậy, không nói sai khác, không nói thêm bớt.

Không nói hai lưỡi nghĩa là đối giữa người này, người kia, bên này bên nọ nên luôn luôn mong hoà hợp lẫn nhau, không đem chuyện người này xuyên tạc người nọ, không gây sự nghi ngờ xích mích giữa hai bên.

Không nói hung dữ nghĩa là luôn luôn lấy lời ôn hoà nhỏ nhẹ tỏ bày, dẩn dắt cho người, niềm nỡ chào hỏi, hoàn toàn không bao giờ dùng những lời đắng cay, độc ác chưởi rủa tác hại chúng sanh

Không tham lam nghĩa là đối với tài lợi của kẽ khác không móng ý tham muốn, thấy người đến xin, tâm không lẫn tiếc.

Không giận hờn nghĩa là đối với tất cả chúng sanh, dứt trừ những điều sân hận bực tức, nên khởi tâm niệm từ bi thương sót, tâm niệm đem lại sự lợi ích, tâm niệm đem lại sự an vui cho chúng sanh, khéo léo tuỳ thuận nhiếp hoá tất cả.

Không tà kiến nghĩa là phải biết nhận thức đúng: Cuộc sống cần có sự bố thí, có sự cứu tế, có sự giáo dục hướng dẫn, có đạo cha mẹ, có đời này đời sau, có khổ có vui, có mọi hành động và quả báo của thế gian, có các bậc A la hán tu đạo xuất thế tự thân chứng quả, đã dứt sanh tử, đã thành tựu tịnh hạnh, đã hoàn tất mọi việc làm, tự biết không còn thọ thân đời sau nữa.

Minh Thiên nên biết rằng: không sát hại, không trộm cắp, không tà dâm là tu hạnh từ về thân. Không nói dối, không thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói hung dữ là Bồ Tát tu hạnh từ về miệng. Không tham lam, không giận hờn, không si mê tà kiếnBồ Tát tu hạnh từ về ý. Thế là Bồ Tát quan niệm bình đẳng đối với tất cả chúng sanh.

Minh Thiên! Bồ Tát tu hạnh từ về thân, tu hạnh từ về miệng , tu hạnh từ về ý đối với chư phật quá khứ, hiện tạivị lai, cũng như tu hạnh từ về thân, tu hạnh từ về miệng, tu hạnh từ về ýđối với tất cả chúng sanh quá khứ. Hiện tạivị lai được những phươc báo công đức gì đều đem công đức đó hồi hướng cho tất cả chúng sanh đồng thành Chánh Đẳng Chánh Giác.

Minh Thiên ! khi Bồ Tát thành tựu vô lượng công đức như vậy thì hãy đem công đức ấy hồi hướng vô lượng trí tuệ. Lại cùng tất cả chúng sanh hồi hướng về quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác.

Công đức này có ba thứ:

- Quá khứ không

- Hiện tại không

- Vị lai không

Không có người hồi hướng.

Không có pháp hồi hướng.

Khôngcó nơi hồi hướng.

Bồ Tát nên hồi hướng như vậy. Khi hồi hướng như vậy, ba chỗ đều thanh tịnh. Đem công đức thanh tịnh đó cho tất cả chúng sanh đồng hồi hướng về quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Người hồi hướng như vậy, không có phàm phu và pháp phàm phu, cũng không có tín hành, không có pháp hành, không có bát nhẫn (1), không có Hướng Tu Đà Hoàn, Quả Tu Đà Hoàn, không có Hướng Tư Đà Hàm, Quả Tư Đà Hàm, không có Hướng A Na Hàm, Quả A Na Hàm, không có Hướng A La Hán, Quả A La Hán, không có Hướng Bích Chi phật, Quả Bích Chi phật. Cũng không có Hướng Phật và Quả Phật.

Tại sao thế? – Vì pháp tánh không vướng mắc, không sanh, không trú, không diệt.

Thế nên Bồ Tát đem ba thứ công đức thanh tịnh của ba cách hồi hướng này cho tất cả chúng sanh, đồng hồi hướng về quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bồ Tát hồi hướng như vậy, lại nguyện rằng: “Nếu tôi sanh ra chỗ nào, đều thường gặp Phật, đạt dược pháp chánh định thậm thâm, thấy được vô lượng Phật, thành tựu sự hiểu biết sâu rộng, trí tuệ thanh tịnh, thề không bỏ chúng sanh “.

Khi Phật nói pháp này, có trăm ngàn vị Thiên Nhơn đều nguyện vãng sanh về cõi Phật A Súc.

Bấy giờ Phật bảo Tôn giả A Nan: “Khi ta vừa nói pháp thậm thâm này, thì có trăm ngàn Thiên Nhơn đều nguyện vãng sanh về cõi nước Phật A Súc. Rồi từ một cõi Phật này đến một cõii Phật khác cúng dường chư Phật, nghe pháp, được pháp tổng trì, ghi nhận tu hành đúng như Chánh pháp. Tất cả những vị ấy đều sẽ thành tựu trí tuệ không thể nghĩ bàn, và sẽ được làm Phật ở cõi Ngũ trược, đều đồng một danh hiệu, gọi là Cam Lồ Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Khi thọ ký cho các vị Trời ấy, có trăm ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Theo nghĩa Phật nói thì con biết rằng như vậy là đạt được công đức rộng lớn, là công đức vô lượngcông đức vô biên!”.

Phật bảo: “Kiều Thi Ca! pháp này hoàn toàn thanh tịnh”.

Kiều Thi Ca thưa: “ Bạch Thế Tôn, kinh này tên gì và phải phụng trì như thế nào?”

Phật đáp: “Thích Đề Hoàn Nhơn Kiều Thi Ca ! Kinh này tên là Đại Hồi Hướng, cũng gọi là Thậm Thâm Pháp Tánh Hồi Hướng. Các ông nên đúng như vậy mà phụng trì.

Kiều Thi Ca, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc!”

Khi nghe Phật thuyết pháp này, các Tỳ kheo, Đế thích, Phạm Thiên, Trời, Người, A Tu La v.v.. đều vui vẻ phụng hành.

Chú thích:

(1) Bát nhẫn: Là trí nhẫn được và chứng nhậptứ đế của cõi Dục và hai cõi trên –Sắc và Vô sắc-Nhẫn tứ đế của cõi Dục gọi là tứ pháp nhẫn; Khổ Pháp nhẫn, Tập Pháp nhẫn, Diệt Pháp nhẫn, Đạo Pháp nhẫn. Nhẫn tứ đế của cõi Sắc và Vô sắc goi là: Khổ Loại nhẫn, Tập Loại nhẫn, Diệt Loại nhẫn, Đạo Loại nhẫn – Loại là tợ loại, vì ở hai cõi trên sự nhẫn không hoàn toàn giống như cõi Dục, bỡi lẽ các cõi trên tương đối ít khổ hơn. Nhờ bát nhỗn mà đoạn được kiến hoặc ba cõi. Đoạn được kiến hoặc rồi, quán chiếu một cách rõ ràng thì gọi là bát trí. Bát nhẫnVô gián đạo, bát tríGiải thoát đạo. Nhẫn là nhơn của Trí, Trí là quả của Nhẫn. Hợp cả bát tríbát nhẫn gọi là mười sáu tâm kiến đạo.

Phụ chú:

(*) Cấp Cô Độc tên thậtTu Đạt Đa, cũng gọi là trưởng giả Tu Đạt. Ông thường giúp đỡ trẻ mồ côi và người già cả không có gia đình con cái. Do đó người đời bấy giờ thường gọi là Cấp Cô Độc,

Kỳ Đà, còn gọi là Thệ Đa,(vì phiên âm tuỳ mỗi nơi nên có hơi khác) có nghĩa là Chiến Thắng, tức Thái tử con vua Ba Tư Nặc. Vì khi sanh Thái tử, nhằm lúc nhà vua giao chiến với ngoại quốc được thắng trận, nên lấy đó đặt tên cho Thái tử.

Trưởng giả Tu Đạt lúc đầu chưa biết Phật pháp, nhơn có việc đến thành Vương Xá, gặp Phật ông sanh lòng tín kính, mới đảnh lễ thỉnh Phật về ở nước Xá Vệ để thuyết pháp. Phật nhận lời và phái ngài Xá Lợi Phất đến trước để tìm chỗ thích nghi cho Tăng chúng đến ở. Trưởng giả Tu Đạt và ngài Xá Lợi Phất đi tìm khắp nơi trong thành Xá Vệ, chỉ có vườn cây của Thái tử Kỳ Đà là nơi thích hợp nhất. Trưởng giả đến hỏi Thái tử để mua khu vườn ấy mà lập tịnh xá, Thái tử không có ý định bán vườn, nhưng trước sự khẩn khoản của Trưởng giả, Thái tử vui miệng nói: “Trưởng giả cứ đem vàng trải đủ thì tôi sẽ nhượng khu vườn đó cho”. Sẳn có nhiều vàng, lại nhiệt tâm vì đạo, Trưởng giả không ngần ngại cho người mở kho chở vàng đến, lần lượt trải vàng lên các khoảng đất trống. Đến khi còn lại một phần đất và những chỗ có cây chưa trải được thì Trưởng giả đứng ngẫm nghĩ. Lúc đó Thái tử mới nói với Trưởng giả rằng: “Hay là Trưởng giả nghĩ đắc giá, thôi thì Trưởng giả cứ đem vàng về và vườn tôi để lại cho tôi chứ không sao”. Thái tử ngạc nhiên khi nghe Trưởng giả đáp; ‘Thưa, tôi đang tính các khoảng còn lại phải dùng hết bao nhiêu vàng nữa, và những chỗ có cây thì phải làm sao? Chứ tôi không nghĩ đến việc giá cã.” Thái độ cương quyếtthành thật của Trưởng giả đã làm cho Thái tử cảm động, phát tâm cúng cả cây cối và phần đất còn lại. Đoạn cả hai người đồng chung kiến lập tịnh xá thỉnh Phậtchúng tăng đến ở để thuyết pháp. Nên sau này những hội thuyết pháp tại đó đều có ghi tên hai vị đại thí chủ ấy trong kinh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10418)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12372)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11674)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28843)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12077)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13029)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11479)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12394)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17481)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53122)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35524)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21435)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10707)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19295)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12451)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26078)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13345)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14414)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16106)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13744)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16878)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17619)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13159)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12558)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11645)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11649)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14534)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20512)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19032)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19636)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18709)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12219)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12351)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13899)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15076)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15069)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14018)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15550)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11421)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17215)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15005)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20268)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14644)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13889)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11749)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15092)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13025)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22917)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14587)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11698)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13195)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16916)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18376)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11961)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11521)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15880)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12904)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18943)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18455)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15805)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant