Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vượt Khỏi Danh Tướng

24 Tháng Sáu 201911:33(Xem: 3124)
Vượt Khỏi Danh Tướng

VƯỢT KHỎI DANH TƯỚNG
Nguyễn Thế Đăng

 

Về hương và vị, kinh Pháp hội Văn-thù-sư-lợi phổ môn dạy quán như vầy để giải thoát cái thấy sai lầm của ta về chúng:

“Lại này, Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Hương tướng tam-muội?

Dầu là trăm ngàn kiếp Thường ngửi các thứ hương Như biển nạp các dòng Mà không hề chán đủ. Hương ấy nếu là thật Lẽ ra phải đủ đầy Chỉ có danh tự giả Thật ra bất khả đắc, Mũi cũng vô sở hữu Biết rõ tánh không tịch Đó là Hương tam muội.

Lại này, Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Vị tướng tam-muội?

Lưỡi kia chỗ nếm biết Mặn chua các thứ vị Đều từ các duyên sanh Tánh nó vô sở hữu. Nếu biết được như vậy Nhân duyên hòa hợp khởi Biết nghĩa bất tư nghị Đó tên Vị tam muội.

Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng - để bóc danh tướng ra khỏi sự vật, và để thấy sự vật như nó là. Danh tướng chỉ là chân lý tương đối, quy ước. Khi bóc danh tướng ra khỏi sự vật, bóc chân lý tương đối quy ước ra khỏi sự vật, thì chân lý tuyệt đối, tối hậu sẽ hiện bày.

Kinh nghiệm thực tế là hương đến rồi đi đâu mất, không chứa ở đâu cả; nếu chứa trong thân tâm thì lẽ ra hương phải còn đó, và có lúc đầy. Muốn kinh nghiệm được hương, phải có mũi; không có mũi ngửi thì hương không là hương. Nhưng mũi chưa đủ, phải có thức đi kèm với mũi, vì mũi của người chết đâu có ngửi được hương. Và thức, tức là hệ thống diễn dịch thông tin, thì mỗi loài mỗi khác, chẳng hạn mùi con vật chết thì người tri giác thúi, chó thì cho là thơm. Hương đưa tới mũi còn phải nhờ có không khí, gió.

Hương là một chất với công thức hóa học nào đó (trần) nhưng hương chỉ là hương khi có giác quan mũi (căn) và thức của sinh vật (thức). Đó là ba yếu tố chính tạo ra hương, thiếu một cái thì hương không thành, không hiện hữu. Hương là duyên sanh hợp tạo của căn, trần và thức. Ba yếu tố ấy duyên sanh hợp tạo theo một cách nào đó thì có hương sanh ra. Hương là duyên sanh, hợp tạo nên hương là không tự hiện hữu, không có bản chất nội tại, không có tự tánh, và do đó không thể sở đắc như một thực thể tự hiện hữu luôn luôn có mặt. Không chỉ có hương, mà mũi và thức cũng như vậy, đều do nhiều duyên mà sanh, nên “bất khả đắc”, “vô sở hữu” (không thật có, không có ở đâu cả). Đã chẳng thể đắc, không chỗ có, nên cả ba hương, mũi, thức “chỉ có danh tự giả”.

Quán sát hương càng lúc càng sâu như vậy, lặp đi lặp lại rất nhiều lần thì có lúc chúng ta sẽ lột bỏ được danh tướng của hương, thấy trực tiếp tánh Không của hương, và chúng ta được giải thoát khỏi mê lầm về hương. Thấy tánh Không của hương và luôn luôn ở trong thật tánh của hương, không bị danh tướng của hương lừa dối, đó gọi là hương tam-muội.

Vị sở dĩ có là do ít nhất ba nhân duyên hòa hợpsanh khởi: một vật nào đó (trần), lưỡi (căn), thức để nhận biết (thức). Vì do nhân duyên hòa hợp mà sanh nên nó không tự hiện hữu, thiếu một nhân duyên thì vị không thành. Ngay cả một nhân duyên, phân tích cho tận cùng thì chỉ là những nguyên tử; những nguyên tử làm gì có vị, cảm giác, màu sắc… và phân tích thêm nữa thì ngay những hạt cơ bản tạo thành nguyên tử cũng không còn. Vị là vô sở hữu, không thật có ở đâu cả. Vị là duyên sanh, nên là tánh Không, vô sở hữu. Vì vị vô sở hữu nên không thể nghĩ bàn đối với nó (bất khả tư nghị).

Lại này, Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Xúc tướng tam-muội?

Xúc chỉdanh tự Tánh nó bất khả đắc Mịn trơn ấm các pháp Đều từ các duyên sanh. Nếu biết được tánh xúc Nhân duyên hòa hợp khởi Rốt ráo vô sở hữu Đó tên Xúc tam-muội.

Lại này, Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Ý giới tướng tam-muội?

Dầu họp cõi tam thiên Vô lượng các chúng sanh Nhất tâm cùng suy tìm Ý giới bất khả đắc. Chẳng ở trong hay ngoài Cũng chẳng thể tụ tập Chỉ dùng những giả danh Nói có thảy thảy tướng. Giống như là huyễn hóa Không trụ, không xứ sở Biết rõ nó tánh Không Đó tên ý tam-muội.

Nếu quan sát thấu đáo, xúc được thấy biết là nhân duyên hòa hợp mà khởi sanh, cho nên nó là bất khả đắc, vô sở hữu, chỉ có nơi văn tự, nghĩa là chỉ có nơi chân lý tương đối, quy ước. Xúc là tánh Không, nên tam-muội của xúc là ở trong nền tảng tánh Không của nó, không bị trôi nổi, lưu lạc trong danh tướng tương đối, quy ước, giả hợp của nó.

Ý giới tướng trong kinh này tức là pháp trong sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Cõi của ý, phạm vi của ý, thậm chí chỉ một ý, thì dù họp cả cõi tam thiên đại thiên cùng suy tìm cũng không thấy đâu là chỗ sanh chỗ trụ và chỗ diệt của nó. Cùng suy tìm nhưng không thể thấy, chẳng thể được, bất khả đắc. Ý thoạt hiện thoạt biến, không bắt đầu từ đâu, không chấm dứt ở đâu. Nếu ý lúc ban ngày với những đối tượng của nó, những pháp, những tướng là thật, thì tại sao ban đêm khi mộng lại không có? Và ý với những đối tượng của nó, những pháp, những tướng hiện hữu khi mộng vào ban đêm thì ban ngày lại không có? Cho nên, ý và thảy thảy tướng của nó giống như huyễn hóa, không có chỗ trụ, không có xứ sở. Như huyễnđồng nghĩa với tánh Không.

Tóm lại, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tạo nên thế giới của chúng ta đều vô tự tánh, bất khả đắc, vô sở hữu, như huyễn hóa, đều là tánh Không, và sở dĩ có tất cả hiện hữu là do phân biệt.

Chính phân biệt đã làm cho cái vô tự tánh thành cái có tự tánh, cái bất khả đắc thành cái khả đắc, cái như huyễn thành cái có thật. Chính sự phân biệt của chúng ta đã tạo thành danh tướng để đánh lừa chúng ta. Không phân biệt tức là lột bỏ được những bề ngoài danh tướng đánh lừa để thấy tận bản tánh Không của mọi sự, thân tâmthế giới, người ta được giải thoát khỏi những vô minh, phân biệt mê lầm của mình. Cái thấy đúng, chánh kiến, là phá hủy vô minh phân biệt của mình chứ chẳng phải phá hủy đối tượng là người khác và thế giới. Giải thoát, rốt ráo chẳng phải là giải thoát khỏi cái gì cả, vì tất cả là tánh Không vô sở hữu, không có cái gì để phải giải thoát khỏi nó cả.

Nguyễn Thế Đăng

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4937)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5580)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5708)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5890)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 5079)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4485)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4791)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4797)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5954)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3382)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5372)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 3029)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4257)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5364)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4352)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3417)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6465)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5456)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4701)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6345)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6198)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3994)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6100)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4706)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4856)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3490)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6367)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 5062)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3640)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3579)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5814)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4364)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6099)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5333)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3762)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3876)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3806)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3608)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5476)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4142)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4501)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5913)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3216)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3171)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3999)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4973)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3657)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3126)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4662)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4858)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3550)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4093)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4831)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3677)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3684)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5225)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4260)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3374)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3060)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3195)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant