Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kệ Chú Tắm Phật

06 Tháng Năm 202008:08(Xem: 4832)
Kệ Chú Tắm Phật

Kệ Chú Tắm Phật


 Quảng Minh

Kệ Chú Tắm Phật

Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài, cùng lúc ấy, chư thiên tung hoa trời, trổi nhạc trời chúc mừng thái tửTắm Phậtnghi thức tưới nước thơm lên tượng Phật sơ sinh, ngoài mục đích kỷ niệm đức Phật đản sinh còn mang ý nghĩa sâu sắc về sự tẩy trừ phiền não, hướng đến sự thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý của con người.

          Nghi thức tắm Phật đã có từ xa xưa ở Ấn Độ, các tự viện thường thực hiện nghi lễ tắm Phật như một nhu cầu cần thiết để cầu phước diệt tội.  Khi tiến hành lễ tắm Phật, bài kệ tắm Phật được xướng tụng là:

Ngã kim quán mộc chư Như Lai
Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ
Ngũ trược chúng sanh lịnh ly cấu
Đồng chứng Như Lai tịnh pháp thân.[1]
Tỳ-la thành lý bất tằng sinh
Sa-la thọ gian bất tằng diệt
Bất sanh bất diệt lão Cù-đàm
Nhãn trung khán kiến trùng thiêm tiết. [2]
Kim triêu chính thị tứ nguyệt bát
Tịnh Phạn vương cung sinh Tất-đạt
Phún thủy cửu long thiên ngoại lai
Bỗng túc liên hoa tùng địa phát.[3]
Án, mâu-ni, mâu-ni, tam-mâu-ni, tát bà ha.[4]

我今灌沐諸如來

淨智功德莊嚴聚

五濁眾生令離垢

同證如來淨法身。

毘羅城裏不曾生

娑羅樹間不曾滅

不生不滅老瞿曇

眼中看見重添屑。

今朝正是四月八

淨飯王宮生悉達

九龍天外來

棒足蓮花隨地發。

唵,牟尼,牟尼,三牟尼,薩婆訶。

 

Dịch nghĩa: 

Con nay rưới tắm các Như Lai
Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ
Chúng sanh năm trược rời dơ bẩn
Cùng chứng Như Lai tịnh pháp thân.
Trong thành Tỳ-la chưa từng sinh
Giữa cây Sa-la chưa từng diệt
Bất sinh bất diệt đức Cù-đàm
Lấy mắt nhìn xem càng thêm bụi.
Sáng nay ngày mùng tám tháng tư
Tịnh Phạn vương cung sinh Tất-đạt
Chín rồng phun nước ngoài trời đến
Hoa sen đỡ bước theo đất mọc.
Án mâu-ni, mâu-ni, tam-mâu-ni, tát bà ha.

Bốn câu đầu là bài kệ tắm Phật trong kinh Phật Thuyết Dục Tượng Công Đức[5], theo đó dịch sát là:  Nay con rưới tắm thân của các đức Như Lai, thân ấy là khối công đức được trang nghiêm bởi trí tuệ thanh tịnh, cầu nguyện chúng sanh ở trong giai đoạn đầy năm thứ vẩn đục[6] mong họ thoát ly mọi thứ dơ bẩn, cùng chứng pháp thân thanh tịnh của Như Lai.

Nói về Như Lai là phải nói đến phước trí nhị nghiêm.  Để chứng đắc địa vị Phật đà, chư vị bồ tát phải tích tụ hai thứ tư lương phước đứctrí tuệ, trải qua ba A tăng kỳ kiếp, bằng sự tu tập trí tuệ vô phân biệt, thông đạt pháp tánh viên minh, thuận phần chân như thanh tịnh.  Chư vị bồ tát còn cụ bị đại bi, đại nguyện, đại tinh tấn trong việc hóa độ chúng sanh, nhất là chúng sanh bị năm thứ vẩn đục vây quanh.  Bồ tát hóa độ chúng sanh bằng mọi phương tiện thiện xảocứu cánh là mong chúng sanh diệt được tất cả mê hoặc, cùng chứng đắc pháp thân thanh tịnh của Như LaiPháp thân của Như lai thì thường trú bất diệt, biến khắp pháp giới, thanh tịnh bản tịch, ứng hiện không có thêm bớt, tùy thuận niết bàn sinh tử.

Bốn câu kế tiếp là nói pháp thân thanh tịnh của Như Lai thì bất sinh bất diệt. Cách đây hơn 25 thế kỷ, vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch, tại nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) miền trung Ấn Độ, bồ tát Hộ Minh đã giáng trần, qua hiện thân thái tử Tất-đạt-đa Cù-đàm (Siddhartha Gautama), con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya. Ngài đã vì lòng từ bi, vì sự an lạc, hạnh phúc, giải thoát cho chúng sanh, nên xuất hiệncõi Ta bà nầy. Về sau Ngài xuất gia, tu hànhthành đạo dưới cội Bồ-đề hiệu là Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), trở thành giáo chủ trong ba cõi, bậc thầy của chư thiênloài người.  Qua 49 năm thuyết pháp độ sanh, ngài đã để lại cho nhân loại một kho tàng giáo lý vô tận, những quy luật đạo đức cao siêu, để hướng dẫn con người hướng thiện và giải thoát.  Trong cánh rừng Sala, phía nam thành phố Câu-thi-na (Kusinagara), vào một đêm rất tối và tĩnh mịch, Đức Phật nằm nghiêng bên phải, hướng về phía tây và dần nhập niết bàn, một trạng huống tánh tịnh vô trú.  

Trước hết cần phải hiểu đạo lý sinh diệt.  Sinh là biểu hiện, diệt là kết thúc.  Sự kết thúc của giai đoạn này là sự biểu hiện của giai đoạn kế tiếp.  Như vậy sinh diệt tiếp nối tương tục, sinh là diệt, diệt là sinh, do đó sinh không thật sinh, diệt không thật diệt.  Sinh không thật sinh nên gọi là bất sinh, diệt không thật diệt nên gọi là bất diệtNghĩa lý bất sinh bất diệt nằm trong sinh diệtĐức Phậtba thântự tánh thân, thọ dụng thânbiến hóa thânTự tánh thân là pháp thân thanh tịnh, tự tại trong các pháp.  Thọ dụng thân là thân Phật trong đại tập hội của chư Phật gồm toàn chư vị bồ tátBiến hóa thân là thân Phật từ cung trời Đâu Suất, thị hiện ẩn mất, rồi thọ sinh, thọ dục, vượt thành xuất gia, đến chỗ ngoại đạo, tu hành khổ hạnh, chứng đại bồ đề, chuyển đại pháp luân, nhập niết bàn vô trú.  Ở góc độ đạo lý sinh diệt thì sự giáng sinhdiệt độ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni lịch sử cũng là bất sinh bất diệt.  Qua cái nhìn pháp thân thì mang sắc thái thường trú, bất sinh bất diệt, vì thân ấy từ chân như thanh tịnh dẫn ra, từ bản nguyện dộ sinh khôngthời kỳ kết thúc.  Dùng con mắt phàm phuxem xét pháp thân thì chỉ là vọng kiến điên đảo, thêm bớt sinh diệt: “Nhãn trung khán kiến trùng thiêm tiết.”  Đức Phật vẫn hiện hữu nhưng vì chúng sanh không thấy đó thôi.  Như Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh có ghi:  “Đồ đựng nước bị bể, Ánh trăng không hiện ra, Như vậy lỗi chúng sanh, Tượng Phật cũng chẳng hiện.”[7]

Bốn câu sau cùng là nhắc lại việc đản sinh của đức Phật.  Hằng năm, vào ngày mùng 8 tháng tư âm lịch, các chùa tổ chức lễ hội Tắm PhậtLễ hội ấy dựa theo kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả[8], rằng khi đức Phật đản sinh có hai con rồng phun nước hương thơm, một dòng ấm một dòng mát, rưới lên kim thân thái tử Tất-đạt-đa.  Kinh Phổ Diệu[9] thì nói đến chín con rồng ở trên không trung rưới nước hương thơm xuống tắm rửa thái từ vừa đản sinh.  Theo kinh Ưu-bà-di Tịnh Hạnh Pháp Môn [10], thái tử vừa đản sinh thì đã biết đi, “nhẹ nhàng đi bảy bước trên bảy hoa sen”.  Mỗi bước chân thái tử nhìn về một phương, cả thảy sáu phương: đông, tây, nam, bắc, hạ, thượng.  Đến bước thứ bảy thì thái tử một tay chỉ lên trời và một tay chỉ xuống đất, tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Nói xong, chư thiên dâng hai dòng nước ấm mát tắm cho thái tử, sau đó thái tử trở lại như mọi đứa trẻ bình thường

Ý nghĩa bảy bước hoa sen, theo kinh Ưu-bà-di Tịnh Hạnh Pháp Môn, như sau: Bước thứ nhất, nhìn về phương đông, ngài nguyện làm người dẫn đường tối thượng.  Bước thứ hai, nhìn về phương nam, ngài nguyện làm ruộng phước tốt cho chúng sanh.  Bước thứ ba, nhìn về phương tây, ngài nói đây là thân rốt sau.  Bước thứ tư, nhìn về phương bắc, ngài nói sẽ chứng đắc Vô thượng bồ đề.  Bước thứ năm, nhìn xuống phương hạ, ngài nói sẽ hàng phục ma quân phiền não.  Bước thứ sáu, nhìn lên phương thượng, ngài nguyện làm nơi y chỉ cho chư thiênloài người.  Bước cuối cùng, ngài tuyên bố: “Trên trời, dưới trời chỉ có Ta là trên hết”, bởi lẽ sự kiện một đức Phật xuất hiện ở đời như một bậc tôn quý nhất, tối thắng nhất là vô tiền khoáng hậu.  Kinh Tăng Chi Bộ ghi: "Một người, này các tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người ngang bằng, không có đặt ngang bằng, bậc tối thượng giữa các loài hai chân.  Người ấy là ai ? Chính là Như Lai, bậc A-la-hán Chánh đẳng chánh giác."

Một tượng Phật Thích Ca sơ sinh, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, được đặt trong một cái chậu nước sạch có rắc hoa thơm. Phật tử sắp thành hàng dọc, vừa tụng kệ chú tắm Phật, vừa tiến đến trước tượng Phật, múc một muỗng nước hương thơm rưới tắm lên tượng Phật.  Nghi thức tắm Phật ấy hàm ẩn một ý nghĩa cao siêu, đó là pháp thân Phật vốn thanh tịnh, dụ cho Phật tánh vốn tiềm ẩn trong mỗi người, nhưng vì bị bụi bặm phiền não tham, sân, si, … che lấp, nên Phật tánh không hiển lộ ra được.  Muốn hiển lộ Phật tánh cần mượn nước để tẩy rửa bụi bặm che lấp Phật tánhQuán chiếu việc tắm Phật như là việc gội rửa nội tâm để tìm lại tự tánh sáng ngời vốn sẵn có của mình.  Múc một muỗng nước hương thơm rưới từ trên vai tượng Phật sơ sinh, nếu tâm ta có niệm tham, niệm sân, niệm si … thì xin nguyện cho những tâm niệm xấu ác này theo dòng nước thanh tịnh mà trôi đi, chuyển hóa nội tâm trở nên trong sáng

Tắm Phật cũng là sự biểu lộ lòng thành kính của mình với đức Phật, nguyện báo ơn Phật vì nghĩ nhớ ơn nặng của Ngài: “Đức Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì chúng tathực hành bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ khổ cực. Khi ta tạo tội, Phật đã xót thương, phương tiện giáo hóa, mà ta ngu si, không biết tin tưởng, tiếp nhận. Ta đọa địa ngục, Phật càng đau xót, muốn chịu thay khổ sở cho ta, nhưng nghiệp ta quá nặng, hết cách cứu vớt. Ta sinh loài người, Phật liền dùng phương tiện làm cho ta gieo trồng thiện căn. Đời đời kiếp kiếp, Phật theo dõi ta, lòng không lúc nào rời bỏ chốc lát.”[11]

Chúng con nguyện:

Dứt bỏ dục tình ngoan cố,

Học đòi đức tánh quang minh,

Cúi xin Phật tổ giám thành,

Từ bi gia hộ,

Chúng con cùng pháp giới chúng sanh,

Chóng thành đạo quả.

Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật tác đại chứng minh.

 

 Phật tử Quảng Minh

 19/5/2010

Mồng 6 tháng tư Canh Dần

 Hiệu đính: 29/4/2020



[1] Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy 敕修百丈清規, quyển 2: Ngã kim quán mộc chư Như Lai, Tịnh trí trang nghiêm công đức hải, Ngũ trược chúng sinh ly trần cấu, Đồng chứng Như Lai tịnh pháp thân. 我今灌沐諸如來, 淨智莊嚴功德海, 五濁眾生離塵垢, 同證如來淨法身。

[2] Xuất xứ từ bài kệ thượng đường thị chúng của thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo 大慧宗杲 (1089- 1163) nhân ngày Lễ tắm Phật. Đại Tuệ Phổ Giác Thiền Sư Ngữ Lục 大慧普覺禪師語錄, No. 1998A, quyển 2, tr. 819c21: Tỳ lam viên lý bất tằng sanh, Song lâm thọ hạ hà tằng diệt, Bất sanh bất diệt kiến Cù đàm, Nhãn trung hựu thị trùng thiêm tiết. (毘藍園裏不曾生,雙林樹下何曾滅,不生不滅見瞿曇,眼中又是重添屑。Nơi vườn Tỳ-lam chưa từng sinh Trong rừng song lâm đâu từng diệt Chẳng sinh chẳng diệt thấy Cù-đàm, Trong mắt lại càng thêm vướng bụi.) Kim tiết tuy quý, lạc nhãn thành ế 金屑雖貴 落眼成翳 (Mạt vàng tuy quí, rơi trong con mắt cũng thành bệnh.) Mạt vàng cũng giống như hạt bụi mà thôi.

[3] Đại Tuệ Phổ Giác Thiền Sư Ngữ Lục, quyển 2, tr. 814c20: Kim triêu chánh thị tứ nguyệt bát, Tịnh Phạn vương cung sinh Tất-đạt, Thổ thủy cửu long thiên ngoại lai, Bổng túc thất liên tùng địa phát. 今朝正是四月八, 淨飯王宮生悉達, 吐水九龍天外來, 棒足七蓮從地發。

[4] Thần chú Phật Thích Ca Mâu Ni:  Om muni muni mahamuni shakyamuni svaha

[5] Phật Thuyết Dục Tượng Công Đức Kinh 佛說浴像功德經, No. 697, Đại Đường Tây Trúc Tam tạng Bảo Tư Duy dịch.: Ngã kim quán mộc chư Như Lai, Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ, Ngũ trược chúng sinh lệnh  ly cấu, Nguyện chứng Như Lai tịnh pháp thân. 我今灌沐諸如來, 淨智功德莊嚴聚, 五濁 眾生令離垢,願證如來淨法身.

Dục Phật Công Đức Kinh 浴佛功徳經, No. 698, Pháp sư Nghĩa Tịch dịch:  Ngã kim quán mộc chư Như Lai, Tịnh trí công đức trang nghiêm tụ, Nguyện bỉ ngũ trược chúng sinh loại, Tốc chứng Như Lai tịnh pháp thân. 我今灌沐諸如來, 淨智功徳莊嚴聚, 願彼五濁衆生類, 速證如來淨法身.

[6] Năm thứ vẩn đục: Thời kỳ vẩn đục, kiến thức vẩn đục, tâm lý vẩn đục, con người vẩn đục, đời sống vẩn đục (kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược).

[7] Đại thừa Trang nghiêm kinh luận 大乘莊嚴經論, No. 1604, quyển 3, tr. 603b05: Thí như thủy khí hoại, Nguyệt tượng bất hiện tiền, Như thị chúng sinh quá, Phật tượng diệc bất hiện. 譬如水器壞, 月像不現前, 如是衆生過, 佛像亦不現。

[8] Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh 過去現在因果經, No. 189.

[9] Phật Thuyết Phổ Diệu Kinh 佛説普曜經, No. 186.

[10] Ưu-bà-di Tịnh Hạnh Pháp Môn Kinh 優婆夷淨行法門經, No. 579.

[11] Khuyến phát bồ đề tâm văn, đại sư Thật Hiền, H.T Thích Trí Quang dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2851)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3312)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4697)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3554)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7400)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4579)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4617)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7440)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 3032)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12382)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4041)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3863)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4294)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3750)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5121)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6806)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4069)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4197)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5434)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3874)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4623)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3620)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 4015)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4475)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5473)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3915)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 4007)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3937)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4897)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4570)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4329)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3921)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4729)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4277)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6199)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4653)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 5012)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4258)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4914)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5757)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3751)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4106)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4661)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5358)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3205)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4632)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4366)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4806)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4589)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4673)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7331)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5292)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5081)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4673)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5684)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5357)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4239)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6089)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4792)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4937)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant