Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tăng Đoàn Là Gì?

08 Tháng Giêng 202416:40(Xem: 847)
Tăng Đoàn Là Gì?
Tăng Đoàn Là Gì?

Tsenshap Serkong Rinpoche thứ Hai, Matt Lindén

Lozang Ngodrub  
Võ Thư Ngân 


khat thuc

Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật, những người được gọi là tỳ kheo (bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), hay chư Tăng Ni. Ngày nay, khi Phật giáo đã lan rộng khắp thế giới phương Tây, thì việc cộng đồng Phật tử nói chung, hoặc thậm chí chỉ một nhóm nhỏ của các cư sĩ tại giatrong một trung tâm Phật pháp được xem là Tăng đoàn, là điều khá phổ biến.

Nguồn Gốc Của Tăng Đoàn

Sau khi Đức Phật thành đạo, Kinh Chuyển Pháp Luân hay Dharmachakrapravartana Sutra cho biếtrằng Ngài đã thuyết bài Pháp đầu tiên về Tứ Diệu Đế cho năm người bạn cũ, đã cùng tu pháp tu khổ hạnh với Ngài trong một vài năm. Với khai thị này, cả năm vị đầu đà đều trở thành đệ tử của Ngài, và trong số đó, Kiều Trần Như (Kaundinya) đã đạt quả vị A la hán, bậc giải thoát. Vài ngày sau, trong khi thuyết giảng về tánh Không của bản ngã, hay bản ngã không thể tồn tại theo cách bất khả, thì những vị đầu đà khác cũng đều đạt được quả vị A la hán. Do đó, năm vị đệ tử này đã trở thành những thành viên đầu tiên của Tăng đoàn, hay chư Tăng đầu tiên trong nhà Phật.

Sau đó, Đức Phật đã trải qua quãng đời còn lại, tổng cộng khoảng 45 năm, để truyền bá giáo phápmà Ngài đã khám phá ra, trong khi các đệ tử của Ngài cũng đi đến các làng mạc và thị trấn trên khắp vùng đồng bằng phía Bắc Ấn Độ để truyền bá thông điệp của Ngài. Đức Phật đã nhanh chóng thu hút nhiều tín đồ từ nhiều tầng lớp trong xã hội: các đạo sư tâm linh khác, các nhà vua và hoàng hậu, nông dân và đồ tể, v.v... Trong khi phần lớn các đệ tử không muốn từ bỏ đời sống thế gian, những người muốn rời bỏ đời sống cư sĩ và gia nhập Tăng đoàn đều được hoan nghênh. Các đệ tửtại gia, những người tiếp tục làm việc và lập gia đình, đã hỗ trợ vấn đề ăn mặc cho Tăng đoàn.

Theo thời gian, khi ngày càng có nhiều người chính thức đi theo Đức Phật, thì điều cần thiết là phải lập ra quy tắc cho đệ tử tuân theo, để tạo ra cộng đồng tâm linh hài hòa. Giới luật đã được thành lập khi cần thiết, thông qua quá trình thử nghiệm và sai sót, để ứng phó với sự cố với kết quả không như ý đã xảy ra trong Tăng đoàn. Vào cuối đời của Đức Phật, đã có hàng trăm giới luật cho chư Tăng Ni.

Truyền Giới Xuất Gia Cho Phụ Nữ

Vào lúc đầuĐức Phật chỉ thu nhận nam giới vào hàng ngũ Phật tử. Năm năm sau khi thành lậpTăng lữ, người dì của Đức Phật là Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di  (Mahaprajapati Gautami) đã yêu cầu Ngài cho bà xuất gia làm ni cô, nhưng Ngài đã từ chối. Tuy nhiênMa Ha Ba Xà Ba Đềkhông hề nao núng, và quyết định cùng với 500 phụ nữ khác cạo đầu và mặc áo cà sa vàng, đi theoĐức Phật.

Ma Ha Ba Xà Ba Đề dâng lên hai thỉnh cầu nữa với Đức Phật, và mỗi lần Đức Phật đều từ chối, không cho họ xuất gia. Lần thứ tư, A Nan (Ananda), em họ của Đức Phật, đã thay mặt bà thỉnh cầu, và hỏi Ngài liệu phụ nữ có khả năng để tu tập trên đường tu và thành tựu giác ngộ như nam giới hay không, và Đức Phật đã khẳng định điều này. Sau đó, A Nan đề nghị rằng việc phụ nữ trở thànhni cô là tốt, và Đức Phật đã cho phép các nữ đệ tử xuất gia.

Tăng Đoàn Thông Thường Và Tăng Đoàn Thánh Nhân

Thông thường thì thuật ngữ Tăng đoàn được dùng để chỉ hai nhóm tỳ kheo ( bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), chư Tăng Ni noi theo lời dạy của Đức PhậtThuật ngữ bhikshu thật ra có nghĩa là "người ăn xin", và đã được sử dụng, bởi vì đúng ra thì cộng đồng xuất gia phải từ bỏ hầu hết của cải vật chất và lang thang từ nơi này đến nơi khácphụ thuộc vào người khác để kiếm ăn. Phải có tối thiểu bốn vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, hoặc bốn vị Sa di hay Sa di ni, bất kể mức độ ý thức hay chứng ngộ của họ ra sao, để tạo ra một Tăng đoànChúng ta gọi đây là Tăng đoàn thông thường. Ngoài ra còn có Tăng đoàn thánh nhân, dùng để chỉ những cá nhân, đã xuất gia hay chưa xuất gia, đã thật sự thành tựu một số chứng ngộ trên đường tu nhà Phật.

Điều quan trọng là phải phân biệt giữa Tăng đoàn thông thường và Tăng đoàn thánh nhân. Tuy có rất nhiều Tăng Ni bình thường xuất sắc, nhưng có thể có những người cũng bị rối loạn cảm xúcnhư chúng ta - và điều đó có thể khiến ta thắc mắc tại sao mình nên quy y với họ. Vì vậy, là một trong Tam BảoTăng đoàn thánh nhân là Bảo thật sự để mình quy y, vì chư vị là những người thật sự có thể giúp mình đi đúng hướng.

Phẩm Chất Của Tăng Đoàn

Vậy thì Tăng đoàn có những phẩm chất nào mà chúng ta muốn tự mình phát triển?

  1. Khi thuyết Pháp thì họ không chỉ lặp lại những điều đã học từ sách vở, mà nói từ kinh nghiệmthực thụ của chính mình, và điều này thật sự tạo ra cảm hứng.
  2. Mong muốn duy nhất của họ là giúp đỡ người khác, và họ thực hành những gì họ thuyết giảng. Hãy nghĩ về một người hút thuốc mà lại mắng chúng ta về sự nguy hiểm của việc hút thuốc, thì ta sẽ thật sự tự hỏi tại sao mình nên làm theo lời khuyên của họ, đúng không? Vì lẽ đó, Tăng đoàn luôn chân thành trong những việc họ làm, nên chúng ta có thể thật sự tin tưởng họ.
  3. Khi ở cạnh người xấu, thường thì thậm chí ta không nhận ra rằng bản thân mình cũng đã bị lây những tính xấu của họ. Tương tự như vậy, nếu như chơi với bạn tốt, thì ngay cả khi không cần cố gắng nhiều, ta sẽ nhanh chóng có được những tính tốt. Vì vậyTăng đoàn có ảnh hưởng rất tốt đối với mình, để cải thiện việc tu tập của chúng ta.

Tầm Quan Trọng Của Tăng Đoàn

Đức Phật đã nhập niết bàn khoảng 2500 năm trước, để lại giáo huấn của Ngài, đó là Pháp, để chúng ta tu tập. Tất cả những điều này chính là Phật pháp, nhưng nếu muốn tu tập tốt, thì phải có những tấm gương đáng tin cậy, những người đã thật sự học hỏinghiên cứu và thực hành giáo huấn của Đức Phật, và đạt được một vài mục tiêu của giáo huấn ấy, để giúp đỡ và hướng dẫn chúng taCộng đồng của những người như vậy chính là Tăng đoàn.

Ngày nay, chúng ta thường xem những người nổi tiếng là tấm gương của mình, như các nam và nữ diễn viên, người mẫu, ca sĩ và vận động viên thể thao. Nhưng những người này có vấn đề riêng của họ, đúng không? Chúng ta biết rằng đời tư của họ thường rất lộn xộn! Không chỉ vậy, mà khi bị ám ảnh vì những người nổi tiếng và đời sống của họ, thì chúng ta chỉ thường tán gẫu với bạn bè, thậm chí còn chấp thủ nhiều hơn bình thường về sự tham ái về vật chất; nên những hoạt động này không thật sự mang lại cho tự thân hay tha nhân bất kỳ lợi lạc hay hạnh phúc chân thật nào. Mặt khác, Tăng đoàn là những người đã đoạn trừ một số vấn đề ở mức độ nào đó, không phải đó là điều cao cả hay sao, và họ đang tu tập để đoạn trừ phần còn lại. Nếu chúng ta cũng muốn loại bỏvấn đề của chính mình, thì việc noi gương của họ không phải là điều hợp lý hay sao?

Nhờ có Tăng đoàn mà ngày nay, trong thế giới hiện đại này, chúng ta có những giáo huấn tuyệt vờicủa Đức Phật được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tăng đoàn truyền cảm hứng cho chúng ta, để mình nhìn những vấn đề trước mắt xa hơn, và thấy rằng có một con đường giúp mình hoàn toàn thoát khổ. Tăng đoàn không chỉ truyền cảm hứng cho chúng ta, mà còn hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ mình trên mỗi một bước trên đường tu. Đây là lý do mà đôi khi người ta nói rằng nếu không có Tăng đoàn, thì không có đạo Phật.

Tóm Tắt

Làm thế nào để chọn một tấm gương tốt trong đời sống? Mặc dù chúng ta có thể không gặp một thành viên thật sự trong Tăng đoàn, một người có thành tựu thật sự, một Tăng đoàn thánh nhân, nhưng vẫn có thể gặp những người có kinh nghiệm hơn về giáo pháp, và có được nguồn cảm hứngtừ họ. Khi nhìn thấy tấm gương của họ, ta sẽ cảm thấy khuyến khích để noi theo bước của họ.

Nhờ sự cống hiến của chư Tăng Ni, Tăng đoàn thông thường, mà giáo pháp đã lan truyền khắp thế giới. Giống như Đức Phật được ví như một y sĩ và Pháp là y dược, thì Tăng đoàn giống như những y tá khuyến khích và hướng dẫn mình trên đường tu, khi chúng ta nỗ lực hướng về tự do, để thoát khỏi tất cả các vấn đề của mình mãi mãi.

Tsenshap Serkong Rinpoche thứ Hai, Matt Lindén
Lozang Ngodrub chuyển Việt ngữ; 
Võ Thư Ngân hiệu đính.


Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật, những người được gọi là tỳ kheo (bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), hay chư Tăng Ni. Ngày nay, khi Phật giáo đã lan rộng khắp thế giới phương Tây, thì việc cộng đồng Phật tử nói chung, hoặc thậm chí chỉ một nhóm nhỏ của các cư sĩ tại giatrong một trung tâm Phật pháp được xem là Tăng đoàn, là điều khá phổ biến.

Nguồn Gốc Của Tăng Đoàn

Sau khi Đức Phật thành đạo, Kinh Chuyển Pháp Luân hay Dharmachakrapravartana Sutra cho biếtrằng Ngài đã thuyết bài Pháp đầu tiên về Tứ Diệu Đế cho năm người bạn cũ, đã cùng tu pháp tu khổ hạnh với Ngài trong một vài năm. Với khai thị này, cả năm vị đầu đà đều trở thành đệ tử của Ngài, và trong số đó, Kiều Trần Như (Kaundinya) đã đạt quả vị A la hán, bậc giải thoát. Vài ngày sau, trong khi thuyết giảng về tánh Không của bản ngã, hay bản ngã không thể tồn tại theo cách bất khả, thì những vị đầu đà khác cũng đều đạt được quả vị A la hán. Do đó, năm vị đệ tử này đã trở thành những thành viên đầu tiên của Tăng đoàn, hay chư Tăng đầu tiên trong nhà Phật.

Sau đó, Đức Phật đã trải qua quãng đời còn lại, tổng cộng khoảng 45 năm, để truyền bá giáo phápmà Ngài đã khám phá ra, trong khi các đệ tử của Ngài cũng đi đến các làng mạc và thị trấn trên khắp vùng đồng bằng phía Bắc Ấn Độ để truyền bá thông điệp của Ngài. Đức Phật đã nhanh chóng thu hút nhiều tín đồ từ nhiều tầng lớp trong xã hội: các đạo sư tâm linh khác, các nhà vua và hoàng hậu, nông dân và đồ tể, v.v... Trong khi phần lớn các đệ tử không muốn từ bỏ đời sống thế gian, những người muốn rời bỏ đời sống cư sĩ và gia nhập Tăng đoàn đều được hoan nghênh. Các đệ tửtại gia, những người tiếp tục làm việc và lập gia đình, đã hỗ trợ vấn đề ăn mặc cho Tăng đoàn.

Theo thời gian, khi ngày càng có nhiều người chính thức đi theo Đức Phật, thì điều cần thiết là phải lập ra quy tắc cho đệ tử tuân theo, để tạo ra cộng đồng tâm linh hài hòa. Giới luật đã được thành lập khi cần thiết, thông qua quá trình thử nghiệm và sai sót, để ứng phó với sự cố với kết quả không như ý đã xảy ra trong Tăng đoàn. Vào cuối đời của Đức Phật, đã có hàng trăm giới luật cho chư Tăng Ni.

Truyền Giới Xuất Gia Cho Phụ Nữ

Vào lúc đầuĐức Phật chỉ thu nhận nam giới vào hàng ngũ Phật tử. Năm năm sau khi thành lậpTăng lữ, người dì của Đức Phật là Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di  (Mahaprajapati Gautami) đã yêu cầu Ngài cho bà xuất gia làm ni cô, nhưng Ngài đã từ chối. Tuy nhiênMa Ha Ba Xà Ba Đềkhông hề nao núng, và quyết định cùng với 500 phụ nữ khác cạo đầu và mặc áo cà sa vàng, đi theoĐức Phật.

Ma Ha Ba Xà Ba Đề dâng lên hai thỉnh cầu nữa với Đức Phật, và mỗi lần Đức Phật đều từ chối, không cho họ xuất gia. Lần thứ tư, A Nan (Ananda), em họ của Đức Phật, đã thay mặt bà thỉnh cầu, và hỏi Ngài liệu phụ nữ có khả năng để tu tập trên đường tu và thành tựu giác ngộ như nam giới hay không, và Đức Phật đã khẳng định điều này. Sau đó, A Nan đề nghị rằng việc phụ nữ trở thànhni cô là tốt, và Đức Phật đã cho phép các nữ đệ tử xuất gia.

Tăng Đoàn Thông Thường Và Tăng Đoàn Thánh Nhân

Thông thường thì thuật ngữ Tăng đoàn được dùng để chỉ hai nhóm tỳ kheo ( bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), chư Tăng Ni noi theo lời dạy của Đức PhậtThuật ngữ bhikshu thật ra có nghĩa là "người ăn xin", và đã được sử dụng, bởi vì đúng ra thì cộng đồng xuất gia phải từ bỏ hầu hết của cải vật chất và lang thang từ nơi này đến nơi khácphụ thuộc vào người khác để kiếm ăn. Phải có tối thiểu bốn vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, hoặc bốn vị Sa di hay Sa di ni, bất kể mức độ ý thức hay chứng ngộ của họ ra sao, để tạo ra một Tăng đoànChúng ta gọi đây là Tăng đoàn thông thường. Ngoài ra còn có Tăng đoàn thánh nhân, dùng để chỉ những cá nhân, đã xuất gia hay chưa xuất gia, đã thật sự thành tựu một số chứng ngộ trên đường tu nhà Phật.

Điều quan trọng là phải phân biệt giữa Tăng đoàn thông thường và Tăng đoàn thánh nhân. Tuy có rất nhiều Tăng Ni bình thường xuất sắc, nhưng có thể có những người cũng bị rối loạn cảm xúcnhư chúng ta - và điều đó có thể khiến ta thắc mắc tại sao mình nên quy y với họ. Vì vậy, là một trong Tam BảoTăng đoàn thánh nhân là Bảo thật sự để mình quy y, vì chư vị là những người thật sự có thể giúp mình đi đúng hướng.

Phẩm Chất Của Tăng Đoàn

Vậy thì Tăng đoàn có những phẩm chất nào mà chúng ta muốn tự mình phát triển?

  1. Khi thuyết Pháp thì họ không chỉ lặp lại những điều đã học từ sách vở, mà nói từ kinh nghiệmthực thụ của chính mình, và điều này thật sự tạo ra cảm hứng.
  2. Mong muốn duy nhất của họ là giúp đỡ người khác, và họ thực hành những gì họ thuyết giảng. Hãy nghĩ về một người hút thuốc mà lại mắng chúng ta về sự nguy hiểm của việc hút thuốc, thì ta sẽ thật sự tự hỏi tại sao mình nên làm theo lời khuyên của họ, đúng không? Vì lẽ đó, Tăng đoàn luôn chân thành trong những việc họ làm, nên chúng ta có thể thật sự tin tưởng họ.
  3. Khi ở cạnh người xấu, thường thì thậm chí ta không nhận ra rằng bản thân mình cũng đã bị lây những tính xấu của họ. Tương tự như vậy, nếu như chơi với bạn tốt, thì ngay cả khi không cần cố gắng nhiều, ta sẽ nhanh chóng có được những tính tốt. Vì vậyTăng đoàn có ảnh hưởng rất tốt đối với mình, để cải thiện việc tu tập của chúng ta.

Tầm Quan Trọng Của Tăng Đoàn

Đức Phật đã nhập niết bàn khoảng 2500 năm trước, để lại giáo huấn của Ngài, đó là Pháp, để chúng ta tu tập. Tất cả những điều này chính là Phật pháp, nhưng nếu muốn tu tập tốt, thì phải có những tấm gương đáng tin cậy, những người đã thật sự học hỏinghiên cứu và thực hành giáo huấn của Đức Phật, và đạt được một vài mục tiêu của giáo huấn ấy, để giúp đỡ và hướng dẫn chúng taCộng đồng của những người như vậy chính là Tăng đoàn.

Ngày nay, chúng ta thường xem những người nổi tiếng là tấm gương của mình, như các nam và nữ diễn viên, người mẫu, ca sĩ và vận động viên thể thao. Nhưng những người này có vấn đề riêng của họ, đúng không? Chúng ta biết rằng đời tư của họ thường rất lộn xộn! Không chỉ vậy, mà khi bị ám ảnh vì những người nổi tiếng và đời sống của họ, thì chúng ta chỉ thường tán gẫu với bạn bè, thậm chí còn chấp thủ nhiều hơn bình thường về sự tham ái về vật chất; nên những hoạt động này không thật sự mang lại cho tự thân hay tha nhân bất kỳ lợi lạc hay hạnh phúc chân thật nào. Mặt khác, Tăng đoàn là những người đã đoạn trừ một số vấn đề ở mức độ nào đó, không phải đó là điều cao cả hay sao, và họ đang tu tập để đoạn trừ phần còn lại. Nếu chúng ta cũng muốn loại bỏvấn đề của chính mình, thì việc noi gương của họ không phải là điều hợp lý hay sao?

Nhờ có Tăng đoàn mà ngày nay, trong thế giới hiện đại này, chúng ta có những giáo huấn tuyệt vờicủa Đức Phật được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tăng đoàn truyền cảm hứng cho chúng ta, để mình nhìn những vấn đề trước mắt xa hơn, và thấy rằng có một con đường giúp mình hoàn toàn thoát khổ. Tăng đoàn không chỉ truyền cảm hứng cho chúng ta, mà còn hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ mình trên mỗi một bước trên đường tu. Đây là lý do mà đôi khi người ta nói rằng nếu không có Tăng đoàn, thì không có đạo Phật.

Tóm Tắt

Làm thế nào để chọn một tấm gương tốt trong đời sống? Mặc dù chúng ta có thể không gặp một thành viên thật sự trong Tăng đoàn, một người có thành tựu thật sự, một Tăng đoàn thánh nhân, nhưng vẫn có thể gặp những người có kinh nghiệm hơn về giáo pháp, và có được nguồn cảm hứngtừ họ. Khi nhìn thấy tấm gương của họ, ta sẽ cảm thấy khuyến khích để noi theo bước của họ.

Nhờ sự cống hiến của chư Tăng Ni, Tăng đoàn thông thường, mà giáo pháp đã lan truyền khắp thế giới. Giống như Đức Phật được ví như một y sĩ và Pháp là y dược, thì Tăng đoàn giống như những y tá khuyến khích và hướng dẫn mình trên đường tu, khi chúng ta nỗ lực hướng về tự do, để thoát khỏi tất cả các vấn đề của mình mãi mãi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 40)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 175)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 208)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 227)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 295)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 209)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 258)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 366)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 332)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 309)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 395)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 621)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 485)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 489)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 587)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 756)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 864)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 847)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 740)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 714)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 717)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 815)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 838)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 945)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 725)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 621)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 717)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 831)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 720)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 710)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 825)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 857)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 828)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 874)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 908)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 893)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1098)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 958)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1684)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1070)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1214)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 956)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1217)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1121)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1130)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1285)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1568)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2039)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1105)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1357)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1101)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 955)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1068)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1105)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1538)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1294)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1300)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1030)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1185)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant