Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật nhập thế độ sanh

30 Tháng Năm 201507:26(Xem: 10977)
Đức Phật nhập thế độ sanh
Đức Phật nhập thế độ sanh

Thích Thông Huệ


Đức Phật nhập thế độ sanhCách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu. Ngài đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni, ngoại thành Ca Tỳ La Vệ, ngày nay là xứ Nepal. Sử sách Ấn Độ cho rằng một người ra đời với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, sau này xuất gia sẽ thành Phật, sẽ đem chánh pháp giáo hoá chúng sanh. Khi Đức Thế Tôn thị hiện đản sanh, tiên nhân A Tư Đà đoán rằng sau này Ngài sẽ trở thành Chuyển Luân Thánh Vương hoặc xuất gia sẽ thành Phật; còn ngài Kiều Trần Như cho rằng Đức Thế Tôn sau này chỉ thành Phật và điều ấy đã trở thành sự thật. Lịch sử của Đức Thế Tôn có tính siêu việt giống như đoá hoa Vô Ưu mấy ngàn năm mới nở một lần. Theo tục lệ Ấn Độ, người phụ nữ hoài thai sẽ trở về quê ngoại để sinh nở, Hoàng hậu Ma-Da sắp đến ngày nở nhụy khai hoa đến vườn Lâm Tỳ Ni gặp hoa Vô Ưu nở, đưa tay hái liền hạ sanh Thái tử Sĩ-Đạt-Ta.


Đức Phật nhập thế, thị hiện là một vị Đông cung thái tử trong cung vua Tịnh Phạn. Với hoàn cảnh y báo tại vương thành Ca Tỳ La Vệ, cha là vua Tịnh Phạn, mẹ là hoàng hậu Ma-Da, Ngài ở trên đỉnh cao địa vịdanh vọng nhưng chẳng đam mê lạc thú trần gian, quyết định ra đi tìm đạo, thành đạo, trao truyền chánh pháp đến cuối cuộc đời mới thể nhập Niết bàn tự tại. Trước khi xuất gia, Ngài dạo qua bốn cửa thành thấy cảnh già, bệnh, chết và một đạo sĩ. Từ đó, Ngài trầm tư về lẽ sống chết, về thân phận của kiếp người. Con người phải chịu đựng biết bao nỗi sầu, bi, khổ, ưu, não, mãi bươn chãi theo dòng đời xuôi ngược, cuối cùng đều từ giã cõi đời với hai bàn tay trắng. Người nghèo khổ lẫn giàu sang phú quý đều trải qua sinh, già, bệnh, chết. Với ý chí, trí tuệ phi thườnglòng từ bi vô hạn, Ngài cảm nhận sâu xa nỗi khổ niềm đau của nhân thế, từ bỏ mọi thụ hưởng, quyết định vượt thành ra đi tìm đạo để cứu chúng sanh đang chịu trầm luân thống khổ trong biển sinh tử.  
  
Đạo Phậttư tưởng xuất thế nhưng chủ trương nhập thế để cứu khổ độ sanh. Ngày nay, Liên Hợp Quốc đã công nhận hình ảnh Ngài là biểu tượng của hoà bình thế giới. Ngài sáng lập đạo Phật, đạo của hoà bình, hợp tác, hữu nghị. Đạo Phật chủ trương hoà bình, bảo vệ sự sống, đem đến an lạchạnh phúc cho nhân loại. Trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật chưa từng gây ra cuộc Thánh chiến đẫm máu nào cả. Đạo Phật được công nhậnTôn giáo Văn hoá Thế giới. Ngày lễ Phật đản của cả thế giới được Liên Hợp Quốc bảo trợ và gọi là Đại lễ Vesak. Đức Phật, giáo pháp của Ngài, Tăng đoàn hàng sứ giả của Như Lai nối truyền mạng mạch phật pháp để thông điệp từ bi cứu khổ chuyển hoá nhân sinh. Pháp là đuốc soi tỏ đường trong đêm trường vô minh tăm tối giúp chúng sanh thoát khỏi mê mờ, trở về sống an vui, hạnh phúc, giác ngộgiải thoát.
Đức Phật là Bậc Giác ngộ, đạo Phật là đạo giác ngộ, phật tử là con của Bậc Giác ngộ. Ngài truyền giáo pháp thậm thâm vi diệu, còn hàng hàng lớp lớp sứ giả Như Lai thắp lên ngọn đuốc trí tuệ để soi đường cho chúng sanh đi. Bởi thế, dân gian thường nói: “Tiên bái Trụ trì, hậu bái Thích Ca”. Chính Chư Tăng đã thay Phật nói pháp và truyền giới cho phật tử. Chư Tăngchân lý sống động trong ba ngôi quý báu giúp phật tử hiểu giáo lý một cách thấu đáo, rõ ràng. Chư Tăng có thể xương minh phật pháp, làm cho phật pháp quang huy, đó là lý do vì sao phật tử phải quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Trong kinh Pháp Cú có câu:
            “  Vui thay Phật ra đời
                Vui thay Pháp được giảng
                Vui  thay Tăng hoà hợp
                Hoà hợp tu vui thay.”

Đức Phật thị hiện rồi nhập Niết Bàn, để lại giáo pháp thậm thâm vi diệu. Đức Phật nhập diệt nhưng ánh sáng trí tuệ của Ngài còn tồn tại. Nếu không có hàng sứ giả Như Lai tuyên dương chánh pháp thì dần dần Phật pháp sẽ bị mai một. Chư Tăng thay Phật truyền pháp cũng cần có nếp sống thanh tịnh, là tấm gương sáng trong đời sống tâm linh. Người phật tử trong lòng vui vẻ phấn chấn khi nghe pháp thì mới có được pháp lạctiếp thu những tinh hoa tư tưởng của đạo Phật. Cho dù là người xuất gia hay tại gia cũng nên hoà hợp cộng tu, phật tử tại gia phải giữ gìn năm giới cấm để trở thành người phật tử chân chánh.

Vào ngày 15/12/1999 Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết chính thức công nhận ngày Đại lễ Vesak, còn gọi là Đại lễ Tam hợp là: ngày Phật đản sanh, ngày Phật thành đạo và ngày Phật nhập Niết bàn, cùng vào ngày trăng tròn tháng Vesak theo lịch Ấn Độ cổ nhằm tôn vinh giá trị đạo đức văn hoá, tư tưởng hoà bình của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đây là ngày Lễ hội Văn hoá Tôn giáo Quốc tế. Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc tổ chức tại Srilanka đã xác nhận Phật giáo là một trong những tôn giáo cổ xưa nhất suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ đã và đang tiếp tục đóng góp rất hữu hiệu cho đạo đức tâm linh của nhân loại. Đạo Phật đã đáp ứng cho nhân loại xã hội ngày nay các giá trị an lạc, hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Người đệ tử Phật đã thọ những giới cấm, được nuôi dưỡng trong truyền thống tâm linh của Phật giáo cần tránh xa mọi tội lỗi, phân biệtthiện ác, tội phước. Người phật tử chân chánh cần sống trong tinh thần của Bát chánh đạo là: Chánh kiến, thấy biết chơn chánh; Chánh tư duy, suy nghĩ chơn chánh; Chánh ngữ, nói năng chơn chánh; Chánh nghiệp, hành động chơn chánh; Chánh mạng, mưu sinh chơn chánh; Chánh tinh tấn, siêng năng chơn chánh; Chánh niệm, nghĩ nhớ chơn chánh và Chánh định, tập trung tư tưởng chơn chánh, nhằm mục đích xây dựng đời sống an lạc giải thoát. Thông thường, những gia đình thuần hoá sống trong nền luân lý đạo đức của Phật giáo thường là những gia đình thuần lương, đời sống ổn định, hạnh phúc an vui.

Đức Phật thị hiện với nhân dáng hoàn mỹ và toàn bích, với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp không ai có thể sánh bằng. Nhờ có trí tuệ siêu việt, lòng từ bi nhân ái vượt thường, đời sống tu tập chuyển hoá, Ngài kết tinh bằng những đức tính cao cả tôn quý nhất cả về thể chất lẫn tâm hồn nên chúng sanh xưng dương tán thán Ngài.

Đức Phật tuyên thuyết lần đầu tiên tại Lộc Giả Uyển về chân lý của sự thật gọi là Tứ diệu đế, tức bốn sự thật nhiệm mầu, không phải là quy ước pháp của thế gian mà là sự thật của cuộc đời bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đếĐạo đế.
Khổ đếchân lý sự thật đúng đắn về sự khổ ở thế gian. Con người sinh ra phải chịu cảnh sinh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não mà chúng ta thường nghe là Tam khổ, Bát khổ. Tam khổKhổ khổ, hoại khổhành khổ. Bát khổsanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hoại khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Con người chịu khổ trùng trùng điệp điệp với biết bao điều bất toàn, bất như ý trong cuộc sống ở nơi thân này không thể kể sao cho xiết. Thân bất tịnh là khổ, vô thường là khổ, thân giả hợp là khổ.  Nhưng Đức Phật nói khổ để chúng sanh nhận diện sự thật rồi tìm phương thoát khổ, vì khổ làm thân tâm con người bức bách, ray rứt, thúc giục họ nhìn nhận bản chất sâu xa của cuộc sống.

Tập đếchân lý về nguyên nhân của sự khổ. Mọi thống khổ con người đang phải gánh chịu nơi thân này, cuộc đời này chính là tham, sân, si. Tham chính là nguyên nhân của đau khổ, làm cho con người thiếu sáng suốt. Tham là nguyên động lực làm xoay chuyển bánh xe luân hồi. Người xưa thường nói tham thì thâm vì tham lam chi phối con người thấy lợi trước mắt mà không thấy hại sau lưng, tham làm cho con người đoạn tình, đoạn nghĩa, không còn nhìn xa trông rộng để nhận thức toàn diện vấn đề. Người xưa có câu: Một đốm lửa sân có thể thiêu rụi cả rừng công đức. Sân cũng là nguyên động lực vận chuyển bánh xe luân hồi, phần nhiều là tạo ra ác nghiệp trùng trùng. Si là trạng thái tối tăm trong tâm hồn, là nguyên nhân tạo ra nhiều tội lỗi, là nhân của loài súc sanh không biết tôn tri trật tự, phải trái, tốt xấu, đúng sai, không phân biệt được chơn ngụy chánh tà. Chính si mê sản sinh ra tham và sân. Nếu con người hết si mê thì được sáng suốt, vì thế chúng sanh cần tu tập để đoạn si mê. Đức Phật đã nói Tập đếnguyên nhân của mọi khổ đau, nếu chúng sanh tu tập và đoạn trừ được tham sân si thì trong lòng bình an vui vẻ, ra khỏi trần lao sinh tử. Chư Phật, chư Bồ tát, các bậc Thánh Hiền đoạn trừ tham sân si và đã trở thành vô sanh bất tử. Các Ngài đem ánh sáng quang minh soi rọi vào cuộc đời tăm tối để vực chúng sanh ra khỏi biển khổ sông mê. Chính vì vậy, Đức Phật đã nói: Tập đếsự thật, là nguyên động lực tạo nên tất cả nỗi khổ trong cuộc đời này.

Diệt đế là gì? Diệt đếchân lý về sự diệt khổ. Tức là Niết bàn. Chỉ có những bậc Giác ngộ giải thoát mới thấu hiểu được trạng thái của Diệt đếtrở về với chơn tâm, phật tánh của chính mình, tu tập không còn tham sân si phiền não, không còn bị vô minh nghiệp chướng chi phối, là sự thật của xuất thế gian mà những người còn tham sân si không thể nào hiểu thấu.

Đạo đế là nhân xuất thế gian, là những pháp tu gồm có Tứ Niệm xứ, Tứ Chánh cần, Tứ Như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phầnBát Chánh đạo phần. Để đạt được Diệt đế Niết Bàn cần tu chuyển hoá ba nghiệp, tu tập giới định tuệ để gột rửa tham sân si, vô minh nghiệp chướng trong lòng.

 Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển vận bánh xe Chánh pháp tại Lộc Giả Uyển độ năm anh em Kiều Trần Như đều đắc Thánh quả.  Đức Phật đã thị hiện trên cõi đời này lần đầu tiên thuyết minh về Tứ  đế. Cuối đời Ngài nói kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu triển khai vi diệu pháp đến đỉnh điểm mà trong kinh Pháp Hoa nói là Đại sự nhân duyên Đức Phật xuất hiện trên thế gian để khai thị chúng sanh ngộ nhập phật tri kiến. Ngài nói vô lượng pháp môn tu nhưng cuối cùng là để chúng sanh trở về lại với phật tri kiến của chính mình. Ngài xuất hiện để nói lại nguyên uỷ gốc gác của chúng sanh vốn là Phật, nhưng đã lãng quên rồi tạo nghiệp trầm luân khổ ải trong ba nẻo sáu đường, đó là bi kịch của thân phận chúng sanh.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện đản sanh, xuất gia, thành đạo, hoằng pháp rồi nhập Niết bàn. Đại sự nhân duyên Ngài xuất hiện trên cuộc đời mãi đến giờ hơn 26 thế kỷ. Nhân ngày khánh đản, người học Phật hãy làm sống dậy những giá trị cao quý của đạo Phật, bước đi trên lộ trình giác ngộ, tìm chân lý giải thoát, để mỗi mùa khánh đản trở về thừa hưởng pháp âm vi diệu, sưởi ấm bởi lòng từ bi vô hạn của Ngài mà chào đón một mùa khánh đản tràn đầy ý nghĩa.                                      
                                                      
                                                       Thiền Tự Trúc Lâm Viên Giác
                                                       Mùa Phật đản – PL. 2559
 
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23041)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14074)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 13004)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55131)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9188)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14456)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14174)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14219)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13897)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36337)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19912)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18183)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19231)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19180)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20300)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17649)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31554)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15956)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15031)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14701)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46200)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35957)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21064)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21618)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23418)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34401)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19499)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18963)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22952)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20213)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18388)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19854)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19550)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33447)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34517)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54542)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37747)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21149)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17910)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63687)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17407)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49686)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27497)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20299)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23064)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18910)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16349)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17943)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20968)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17381)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14493)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16876)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16391)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16025)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17502)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21996)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15118)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13514)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14382)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15417)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15015)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12726)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13370)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27417)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12533)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13218)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14498)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16255)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12419)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15433)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12880)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12213)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13209)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21677)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11291)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22743)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15097)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14960)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46208)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22488)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14599)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12642)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18920)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14757)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43890)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56999)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13871)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47524)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13674)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14594)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29033)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33346)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38409)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15415)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31258)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12548)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40419)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43444)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46686)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14429)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant