Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Quốc Trong Kinh Vô Lượng Thọ

22 Tháng Giêng 201507:24(Xem: 9154)
Phật Quốc Trong Kinh Vô Lượng Thọ

Phật quốc trong kinh Vô Lượng Thọ


Phật quốc trong kinh Vô Lượng Thọ“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật. (Xin đọc phần đính kèm ở cuối bài, nói về 4 loại Tịnh độ)

Ngài Pháp Tạng Tỳ kheo, cần cầu thầy của ngài là Thế Gian Định Tự Tại Vương Như Lai. Điều ngài thưa hỏi là muốn biết “Cõi Phật”.

Nếu luận theo Tâm học thì khởi đầu kinh này có hai điều:

  1. Tên của người học trò là Pháp Tạng (tượng trưng cho tạng thức alaya)
  2. Tên người thầy là: Thế Gian Định Tự Tại Vương (tượng trưng cho tâm tự tại với mọi pháp thế gian)

Trên phương diện tu, Ngài Pháp Tạng (tạng thức) nếu luôn trú trong định huệ sẽ thanh tịnh những chủng tử bất thiện trong tạng thức thành thiện và cuối cùng khi nhập lý Bát nhã thì sẽ tự tại với mọi pháp, tượng trưng bởi Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai.

Khi tỳ kheo Pháp Tạng (alaya thức) tịnh thiện đến rốt ráo thì ngài là Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật (thân biến cùng khắp và chứa mọi công đức), là Phật thân chứa đủ mọi Pháp trong thập phương thế giới mà pháp nào cũng là Vô Lượng Quang (tức trí huệ hậu đắc sáng suốt viên mãn; tượng trưng Phật A Di Đà (Amitabha)).

Trên phương diện sự tướng, Pháp Tạng chỉ muốn học: Trang nghiêm Phật độ (cõi Phật).

Có hai cách suy nghĩ khác nhau về nghĩa của trang nghiêm Phật quốc:

1. Trang nghiêm cõi nước (tướng, cảnh).

2. Trang nghiêm tâm (tâm, thức).

Phật không sáng lập, không tạo ra Phật quốc (cõi Phật), nhưng ngài trang nghiêm Phật quốc bằng công đức tu tập. Ngài trang nghiêm tâm thì chánh báo trang nghiêm sẽ là khởi duyên để có y báo trang nghiêm.

Đối với những vị chưa tự tại thì hai trang nghiêm cảnh và tâm này là phương tiện nhiếp độ, hổ trợ cần thiết cho họ, nhất là trên phương diện giác ngộ thành Phật thì lại rất cần hai trang nghiêm nầy.

Tâm nào cảnh đó! Thực ra tâm và cảnh đi đôi (vạn pháp duy tâm, duy thức). Chuột, thỏ thích cảnh trong hang. Con người sống trên trái đất này, tùy nghiệp thức cũng có những hoàn cảnh sống chung quanh khác nhau. Người sinh ra và sống tại Việt nam phải hưởng những hoàn cảnh sống tại Việt nam. Người Việt nam vượt biên qua Mỹ cũng có những nhân duyên phải sống trong hoàn cảnh của nước Mỹ. Cả hai đều là người Việt, nhưng tâm hai người Việt này theo cảnh mà sai biệt rất lớn.Tóm gọn là tu tâm theo thiện pháp sẽ tạo ra công đức, năng lượng, năng lực. Năng lượng công đức này làm cho chánh báo trở nên ngày càng trang nghiêm hơn. Chánh báo hiền thiện và y báo an lạc chỉ là thành quả tất nhiên thuận theo luật nhân quả của nghiệp, mà tâm là yếu tố chánh vận hành. Tâm và cảnh là trợ duyên của nghiệp mà cũng là quả của nghiêp. Phật quốc được trang nghiêm do năng lực, công đức tu tập thân, khẩu, ý của vị Phật là quả của nghiệp mà cũng là trợ duyên cho sự an lạcgiải thoát thành Phật cho chúng sanh.

Khi chưa giác ngộ, chưa nhập Bát nhã thì tâm tạo ra cảnh, sinh năng lực đôi lúc ảnh hưởng đến tâm của người khác. Lấy ví dụ: Một người cau có, gắt gỏng, bước vào đám đông đang vui vẻ thường biến đám đông đó bớt vui vẻ. Dân trong nước đang bồn chồn, lo lắng về trận chiến ác liệt; đột nhiên loa phóng thanh reo hò tin thắng trận; toàn dân nhẹ nhõm, vui vẻ. Qua những ví dụ này ta thấy năng lượng hoặc tâm, hoặc cảnh đều có thể chuyển đổi hoàn cảnh sống.

Trong đời sống, ta chỉ thấy, nghe hay biết qua cảnh. Thí dụ:

Hai chiếc xe tông nhau, ta thấy có năng lực làm thay đổi vật thể là hai cái xe bị móp méo, không những vậy, sức va chạm cũng còn đóng góp vào việc thay đổi vận hành của vũ trụ; nhưng năng lượng này quá nhỏ so với năng lượng vũ trụ nên ta không biết được. Ném một hòn đá vào chân con chó, ta thấy và biết được có năng lực vì con chó đau kêu lên “cẳng cẳng” và chạy cà nhót. Giả sử như bạn có thể cầm hạt bụi nhỏ nhất rồi bạn ném xuống đất hay bạn tung lên trời. Việc làm này cũng tạo ra năng lượng, năng lực. Ta không thấy, không biết vì chưa đủ dụng cụ để đo đạt được; không có nghĩa là năng lượng phát sinh không có; cũng không có nghĩa là năng lượng quá nhỏ bé này không góp phần trong vận hành của vũ trụ. Trên đây là những tạo tác năng lượng của vật chất.

Một lời nói, một hành động, một tâm thức phát ra luôn luôn có tiêu dùng năng lượng và tạo ra năng luợng. Một hành giả cố gắng giữ giới tinh tấn trong chánh ngữ, chánh nghiệp, sống chánh mạng; an định tâm thức mình với chánh niệm, chánh định; hành giả đấy cố gắng, quyết tâm sống với chánh tư duy, chánh huệ. Tất cả những cố gắng, nỗ lực tâm thức, tâm linh này đều phải ra sức làm nên phải có lực hay năng lượng, gọi là năng lượng tâm thức hay năng lượng tâm linh.

Ngài Pháp Tạng đã nỗ lực tu tập thiện nghiệp suốt năm đại kiếp. Ngài khéo tu đến độ hoàn thành 48 nguyện độ sanh. Ngài theo phương tiện khéo được hiển bàydạy bảo của đức Tự Tại Vương Như Lai cùng với sự khéo tư duy, khéo chọn của Ngài rồi gia công dụng hạnh tu trì ba nghiệp thân, khẩu, ý mà hiện nay công đức đã viên mãn (qua sự hoá hiện của Cực Lạc quốc độ cực kỳ trang nghiêm mà 10 phương chư Phật đều khen ngợi) Công đức nầy có thần lực bao la, lợi lạc cùng khắp không phải chỉ ảnh hưởng một nhóm người cau có mà là một Phật quốc bao la để vãng sanhthành Phật.

Phật A Di Đà không sinh ra, không tạo ra thế giới Cực lạc như một thượng đế toàn năng; mà cõi Cực Lạc đó là do công đức tu hành thân, khẩu, ý đúng như lý của Ngài, đã cảm ứng (nhân quả) ra được một thế giới An Lạc như thế. Tất cả đều do năng lực khéo tu trì, là thành quả tu hành theo bản nguyện lợi lạc của ngài mà thôi.

Những pháp hành mà ngài Pháp Tạng tỳ kheo tu, mười phương chư Phật đều tu. Ngài cũng dùng 37 phẩm trợ đạo, thập Ba la mật, vạn hạnh … là cộng Pháp của mười phương Phật, thêm vào những biệt Pháp công đức trang nghiêm cõi Cực Lạc bằng cách quán sátnhiếp thọ các công đức của các cõi Phật. Công đức tu tập hoàn tất trong năm đại kiếp, khéo léo nhiếp thọ hai trăm mười ức Phật tâm cần thiết vào một Phật tâm, thành toàn 48 đại nguyện; đó là công đức vĩ đại nhất là trong việc vãng sanhthành Phật.

Hành giả tu tịnh độ niệm Phật A Di Đà có nghĩa là luôn tưởng nhớ, luôn chiêm ngưỡng, kính trọng công đức của Phật và phát tâm nguyện nương tựa năng lực gia trì của ngài; tức là phải niệm cảnh (danh hiệu và cõi nước trang nghiêm …) và niệm tâm ( từ bi, đại nguyện, gia trì cuả Phật.v.v…) như kinh Quán Vô Lương Thọ Phật đã dạy.

Nam mô A Di Đà Phậtquay về, nương tựa đức Phật A Di Đà qua năng lực gia trì cả tâm và cảnh của Ngài.

Sống trong tập thể, không ai có thể độc lập, không nương tựa gì cả. Ai tự hào cho rằng họ chẳng cần nương tựa mà chỉ cần tự lực thì chúng ta cứ “A Di Đà Phật” và thành tâm cầu nguyện cho họ hiểu rõ bản hoàibi nguyện của chư Phật Bồ Tát , vượt mọi sở tri chướng vào bể nhiếp thọ của Như Lai , chóng được an lạc giải thoát.

Nói về sự nương tưạ thì trước giờ nhập Niết bàn, Phật Thích Ca cũng căn dặn chúng ta nương tựa “giới”, trên thế gian, lúc còn bé, đứa trẻ nào cũng nương tựa cha, mẹ, anh, chị v.v... Tôi ngồi đây, nhìn ra cửa sổ, chiếc lá rung rinh trong nắng. Tôi đang nương tựa vào chiếc lá để thấy, để sinh tồn vì chiếc lá đang tạo dưỡng khí cho tôi thở.v.v... Vạn vật quanh tôi, nhỏ như hạt bụi mà bạn vừa phủi khỏi mặt bàn. Hạt bụi ấy cũng đang góp phần nào sự vận hành của thiên nhiên, của luật nhân quả. Một vận hành ổn định, tự nhiên và nương tựa lẫn nhau. Là Phật tử thì nương tựa Tam bảo:

Con về nương tựa Phật.

Con về nương tựa Pháp.

Con về nương tựa Tăng.

Con luôn niệm Phật với lòng tôn kính và tâm nương tựa thập phương Phật, Pháp, Tăng.

Niệm danh hiệu Phật nào thì Phật đức, Phật trí của vị Phật ấy sẽ hiện rõ trong tâm người niệm khi họ niệm với sự hiểu biết đức trí nguyện của vị Phật và với lòng thành kính , biết ơn tha thiết hướng về ngài.

Trần Đức Hân

Đính kèm:

Nói Đến Tịnh Độ Thì Có 4 Loại Khác Nhau:
1. Phàm Thánh Đồng Cư Độ:
Đây là nói cõi Phật có chư Phật, Bồ Tát, A La Hán, và phàm phu cùng ở chung, như thế giới Diệu Hỷ của Đức Phật Bất Động ( A Súc Phật ), tuy là rất mầu nhiệm nhưng vẫn còn có phàm phu ở.
2. Phương Tiện Thánh Cư Độ:
Là cõi mà các vị Bồ Tát trong Tam Hiền Thập Thánh và các Hồi Tâm A La Hán cảm ứng theo sự tu chứng mà sanh vào. Phương Tiện Thánh Cư Độ không có Phàm Phu mà chỉ thuần là Thánh Hiền. Đây không phải là một thế giới riêng biệt nào cả mà là cảnh giới tu chứng của các vị Thánh ấy và lực gia trì của Phật để tiếp độ mả hóa hiện thành.
3. Thật Báo Trang Nghiêm Độ:
Thật Báo Trang Nghiêm Độ Có 2 Loại Khác Nhau:
a. Tự Thọ Dụng Thật Báo Trang Nghiêm Độ:
Đây là chỗ của Tự Thọ Dụng Báo Thân Phật, là cảnh giới tự chứng của Phật mà chỉ có Phật mới chứng biết. Tự Thọ Dụng Độ tức là cõi cùng khắp Pháp giới không có tướng sai biệt là quả của trí huệ trang nghiêm. Tự Thọ Dụng Báo Thân Phật thì đầy đủ viên mãn mọi tướng công đức là quả của Công đức trang nghiêm
b. Tha Thọ Dụng Thật Báo Trang Nghiêm Độ:
Đây là chỗ trụ của Tha Thọ Dụng Báo Thân Phật, cũng là cõi Tịnh Độ do chư Phật hóa hiện để độ chư Bồ Tát trong Thập Địa. Bậc sơ địa thì thấy theo bậc sơ địa, Nhị Địa thì thấy theo bậc Nhị Địa dần dần tăng lên cho đến bậc Thập Địa.
4. Thường Tịch Quang Tịnh Độ:
Không có tướng cảnh giới, không có nơi chốn ,cùng khắp, không có tướng đối đãi. Thường Quang Tịch Độ là nói tự tánh Pháp thân của chư Phật , đồng nghĩa với Niết bàn vô trụ.

Phật thân:

Pháp thân: Thân chân lý, bát nhã thân, thể tịch và vô tướng.

Báo thân: Thân vô lượng công đức viên thành. Bồ Tát sơ địa đến Thập địa tâm cảnh khá tương ứng mới đủ khả năng ân hưởng một phần công đức này hay được sanh về Báo Độ nầy.

Ứng thân: Thân ứng hiện để độ sanh, vì chúng sanhthị hiện.

Cõi Phật có sai khác là do phương tiện độ sanh mà đặt tên. Trí quả là cõi của Pháp thân, công đức quả thị hiện là cõi của báo thân (độ chư Bồ Tát) và các cõi của ứng thân (độ mọi loài chúng sanh)

Nhất thiết chủng trí là trí biết tất cả tổng pháp cùng biệt pháp như các căn tánh, nghiệp quả và mọi phương tiện sai biệt thích hợp độ sanh, là sự viên mãn rốt ráo của đạo chủng trí của Bồ tát và không trí ( vô ngã trí hay giải thoát trí cuả Thanh Văn). Kinh Hoa Nghiêm có đề cập đến Phật trí, chia ra làm nhiều loại để thể hiện một phần tánh , tướng và dụng của Nhất Thiết Chủng Trí, như sau:

“Giải thoát trí: trí tuệ đã cởi bỏ mọi phiền nãonhận thức sai lầm.

Tất cánh trí: tất cánhhoàn thiện, cùng tột, không gì hơn nữa.

Lợi trí: trí tuệ sắc bén.

Thâm trí: trí tuệ sâu xa.

Tật trí: trí tuệ mau lẹ v.v…

Nhất thiết trí:

Nhất thiết trí là trí giải thoát của A La HánBích Chi Phật, trí biết được đạo lý tổng quát của mọi pháp đó là vô ngã trí, Trí nầy không biết rõ hết sai biệt trí của thế gian cùng phương tiện trí để độ sanh như nhất thiết chủng trí của chư Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8718)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10073)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 10252)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11114)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9089)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9561)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8109)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9356)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 11394)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8764)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9132)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 17569)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 12235)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 26214)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 9603)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 9453)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 10038)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 11420)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 9757)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 10317)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 13741)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 16050)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15682)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18728)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19150)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18968)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 13898)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19267)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 11764)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23265)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19307)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 18379)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 8759)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 27139)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 20029)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15345)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15560)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26882)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 16437)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19466)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19843)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19985)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18678)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 32569)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 20328)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 46004)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 6907)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22783)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 24435)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39352)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 20590)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19938)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 40853)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 18700)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 18527)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 9250)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14256)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 18230)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 17712)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 14762)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant