Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hòa Thượng Thích Như Điển - Chân Dung Một Nhà Văn

26 Tháng Mười Hai 201820:52(Xem: 4446)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Chân Dung Một Nhà Văn

HÒA THƯỢNG THÍCH NHƯ ĐIỂN - CHÂN DUNG MỘT NHÀ VĂN
thichnhudien

Dường như, không ai nghĩ, ngọn lửa mùa thu 1989, được đốt lên từ sinh viên, từ nhà thờ (Nikolaikirche) Leipzig đã thiêu cháy bức tường Berlin nhanh đến như vậy. Tuy vui mừng, nhưng cái bất ngờ ấy, cũng mang đến sự hoang mang không ít cho người Việt chúng tôi đang sống, và làm việc ở miền Đông nước Đức. Bởi, hầu hết các nhà máy, công xưởng phải đóng cửa. Không riêng chúng tôi, mà kể cả những nghiên cứu sinh, sinh viên đại học cũng chạy loạn xí ngầu. Có lẽ, chỉ có ai đã từng sống qua cái thời khắc đó, mới hiểu hết tâm trạng của chúng tôi. Qủa thực, tiền bạc, nơi ăn chốn ở, không phải là điều chúng tôi phải lo nghĩ tới. Bởi, sống ở Đức đã khá lâu, tiền bạc chúng tôi vẫn còn rủng rỉnh trong túi. Ngoài ra, nhà cửa, ăn uống, bảo hiểm ốm đau đều có xã hội chu cấp. Nhưng tâm hồn ai cũng vậy, rất chông chênh và trống trải. Có thể nói, chúng tôi như những con chim lạc đàn, chưa định được đường bay. Thì thật may mắn thay, những người Đức, người Việt ở miền Tây đã mở rộng vòng tay, cùng nơi cửa Phật, Thánh đường che chở, bao bọc, lấp đầy những khoảng trống trong hồn người bơ vơ.

Tôi biết và đọc Hòa Thượng Thích Như Điển trong hoàn cảnh như vậy. Khi chùa Viên Giác nơi Hòa Thượng trụ trì còn ở phố Eichelkamp thuộc thành phố Hannover. Chiếu theo ba rem, tiêu chuẩn củaHòa Thượng Thích Như Điển, tôi không thể là Phật tử được. Bởi, ngay cái khoản bia rượu nhìn mặt đã thấy tưng bừng rồi, bị loại đầu tiên là cái chắc. Do vậy, để lấp đi khoảng trống trong tâm hồn, tôi tìm đến sách báo của chùa. Đặc biệt là những tùy bút, tâm bút, truyện ngắn, truyện dài về Đạo, về đời của Hòa Thượng Thích Như Điển. Có thể nói, tạp chí Viên Giác do Hòa Thượng Thích Như Điển chủ nhiệm là một trong những tờ báo mà tôi chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Cái chất sống, và viết giản dị của Hòa Thượng như một luồng gió mới thổi vào hồn tôi. Để rồi cái nghiệp viết nó vận vào tôi từ lúc nào cũng chẳng hay.

Phải nói thẳngHòa Thượng Thích Như Điển là người có kiến thức sâu rộng, uyên bác. Do vậy, đọc Hòa Thượng không phải ai cũng có thể lãnh hội hết những kiến thức có chiều sâu thăm thẳm ấy. Tôi cũng là kẻ chịu khó đọc, và ngẫm nghĩ, nhưng quả thực, chỉ có thể hiểu, cảm nhận về những tác phẩm thuộc lãnh vực văn học. Còn những tác phẩm chuyên sâu về Giáo lý của Hòa Thượng, đọc mãi tôi cứ thấy mình ù ù, cạc cạc. Có lẽ, do tri thức có hạn, hoặc nói như Hòa Thượng, thiếu một chút duyên chăng? Cho nên, trong bài viết này, tôi chỉ đi sâu vào chân dung Hòa Thượng, qua cái nhìn văn học. Và cũng để không bị gò bó, xin phép Hòa Thượng Thích Như Điển, các Tăng ni, Phật tử…trong khuôn khổ bài viết này, tôi được sử dụng các danh, đại từ: Nhà văn, hoặc ông, thay cho học vị, hay chức danh, Giáo phẩm…

Nhà văn Thích Như Điển tên thế tục là Lê Cường, sinh năm 1949 tại Duy Xuyên, Quảng Nam. Mười lăm tuổi, cậu bé Lê Cường xuất gia tại Tổ Đình Phước Lâm, Hội An. Sau khi đỗ tú tài, năm 1972 ông du học tại Nhật Bản, chuyên ngành giáo dục, và Phật Giáo. Năm 1977 ông sang Đức làm tiếp luận văn cao học tại Đại học Hannover. Tại đây, ông lập ra Niệm Phật Đường (nền móng của Chùa Viên Giác hiện nay) và tạp chí Viên Giác. Nhà văn Thích Như Điển hiện đang sống, nghiên cứu và viết văn tại Hannover, Đức Quốc.

Cho đến nay, tôi cũng chưa thể lý giải, với hàng núi công việc, từ việc Đạo cho đến việc đời, ấy vậy cứ sòn sòn, trung bình mỗi năm nhà văn Thích Như Điển cho ra đời một đầu sách. Thật vậy, gần 70 tác phẩm đã in ấn xuất bản, chứng minh cho sức lao động, cũng như trí tuệ của ông. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ của (tôi) người viết, có chung hoàn cảnh xa quê, xa Tổ Quốc mấy chục năm, như ông, thì: Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác, Hương Lúa Chùa Quê, và Vụ Án Một Người Tu là ba tác phẩm tiêu biểu nhất, làm nên chân dung nhà văn vạm vỡ xứ Quảng Thích Như Điển. Ngoài ra, bút ký và tùy bút chiếm một vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp sáng tạo của ông. Những bài viết này, thường gắn liền với những chuyến đi Hoằng pháp của Hòa Thượng. Nhà văn không chỉ cho người đọc hiểu biết thêm lịch sử, địa lý, với danh lam thắng cảnh ở những nơi miền đất lạ, mà còn rút ra bài học cho người và cho chính mình vậy.

Đọc ông, ta còn có thể thấy, dù ở nơi cửa Phật, với cuộc sống vô thường, song cái tư tưởng, tâm hồn luôn gắn liền với thân phận đất nước và con người. Do vậy, đã gần nửa thế kỷ nơi đất khách, những trang viết ấy, vẫn thấm đẫm tình yêu quê hương, đất nước, với tấm lòng vị tha, nhân bản của nhà văn Hòa Thượng Thích Như Điển.

* Quê hương, nỗi đau và những nghịch lý của chiến tranh.

Có thể nói, lời văn kể chuyện giản dị, với những tình tiết, cùng mối liên hệ đan xen, không theo một một trật tự nhất địnhthủ pháp nghệ thuật xuyên suốt những tác phẩm của nhà văn Thích Như Điển. Do vậy, dù tác phẩm có bố cục thật rõ ràng, song không nhất thiết phải đọc từ đầu, mà có thể đọc cắt ngang. Nếu người đọc có một chút liên tưởng. Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác, và Hương Lúa Chùa Quê là hai tác phẩm đặc trưng nhất cho thi pháp này của nhà văn Thích Như Điển. Đây là những tác phẩm hồi tưởng, tuy mộc mạc, nhưng có lời văn rất đẹp. Đọc nó, dường như ta đang được cùng tác giả trở về tuổi thơ, với trò chơi bắn bi, đánh đáo…của những ngày tháng thật yên bình nơi quê nhà. Đoạn trích dưới đây, không chỉ có lời văn đẹp, ta còn thấy được trí tưởng tượng phong phú, và (hàm) tính triết lý luôn ẩn trong từng con chữ của ông:  

“Thú vui của tuổi thơ ngoài việc bắn bi, đánh cờ gánh ra còn có thú vui chăn trâu hay chăn bò nữa. Nằm ngửa hay nằm sấp trên lưng trâu để trâu gặm cỏ, hay trâu trở về chuồng là một niềm vui khó tả. Tôi ngửa mặt lên trời để đếm từng lùm mây bay qua. Có khi là một ông Tiên râu bạc, có lúc có hình ảnh của Đức Quan Thế Âm. Đôi khi lại hiện ra một vài hình thù kỳ dị… tất cả là một trò cút bắt. Thoạt hiện ra đó rồi thoạt mất đó. Không có áng mây nào nhất định cả. Tất cả đều di động và thay đổi vô chừng“ (Hương lúa chùa quê – sách đã dẫn)

 

Với cái chết của mẹ, chiến tranh đã bắn nát tuổi thơ của người học trò Như Điển. Vết thương ấy, đã đi qua quá nửa thế kỷ, song dường như vẫn không thể đóng thành sẹo trong tâm hồn nhà văn. Vâng! Nỗi đau này không riêng của nhà văn, mà nó là sự mất mát chung của cả dân tộc phải gánh chịu. 

Hương Lúa Chùa Quê là một hồi ký văn học. Tuy là những lời tự sự về thân phận, cuộc đời của tác giả, nhưng nó gắn liền với thân phận đất nước và con người trong từng giai đoạn. Đọc nó, ta thấy hiện lên bức tranh sinh động nhất về cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Cũng như Sợi Khói Bay Vòngcủa Phạm Ngọc  Lư, hay Những Cơn Mưa Mùa Đông của Lữ Quỳnh, tác phẩm Hương Lúa Chùa Quê có cái nhìn công bình, thẳng thắn về chiến tranh. Cho đến nay, đây là ba tác phẩm rất hiếm hoi viết về hậu phương của cuộc chiến ở miền Trung- Cao Nguyên mà tôi đã được đọc (Nếu xếp Hương Lúa Chùa Quê vào trang văn học miền Nam). Có một điều đặc biệt, cả ba tác phẩm này đều chỉ ra những nghịch lý, và sự vô trách nhiệm của những kẻ cầm đầu, tạo ra cuộc chiến này. Ta hãy đọc lại đoạn trích dưới đây, không chỉ thấy được sự nghịch lý, mà còn thấy được sự tàn nhẫn của chiến tranh, và nỗi thống khổ của con người. Dù đây là những hình ảnh chỉ thoáng qua những trang sách của nhà văn Thích Như Điển:

 

 “Ngày ấy chiến tranh rất tàn khốc ở miền quê, vào ban đêm thì mặt trận về, bắt dân phải đi học tập. Còn thanh niên thì đào hầm trú ẩn. Ban ngày thì lính quốc gia đi tuần, bắt dân phải lấp hết những hầm hố ấy lại. Rõ là cảnh khổ của người dân, phải sống trong vùng xôi đậu như thế… Tất cả những khó khăn, nguời dân phải lãnh hết, còn những cấp lãnh đạo họ ngồi tại Sài Gòn, Hà Nội, nào ai có biết đến thân phận của người dân là gì?

…hôm đó chuẩn bị làm tuần 49 ngày cho anh trai thứ sáu của tôi, đi lính Nhân dân Tự vệ bị chết. Trên đường đi về từ chùa Phước Lâm, đến chợ Cẩm Hà, đối diện với tôi là xe chở thương từ trạm Nam Phước trờ đến. Có người nhận ra tôi, nên đã báo tin,  Mẹ tôi, Bác tôi đã qua đời, vì quả bom tối hôm qua nã từ cầu Câu Lâu vào nhà ông Trợ….Trong xe chở thương nầy có cả chị thứ năm của tôi nữa. Ôi! một nhà tan thương biết nói thế nào cho hết nỗi khổ của nhân sinh đây. Tôi lặng người, sau khi đã khóc hết nước mắt để tiễn đưa Mẹ vào nơi chốn vĩnh viễn nghìn thu…“ (Hương lúa chùa quê – sách đã dẫn)

Không dừng ở đó, nhà văn Thích Như Điển còn đẩy sự tàn khốc lên bằng hình ảnh với những cái chết lãng xẹt, quái dị. Nếu không muốn nói là quái đản. Cái sự quái dị, quái đản ấy, không chỉ là bản cáo trạng, luận tội những kẻ mua bán chiến tranh, mà còn là một lời cảm thông gửi đến những người bần cùng, ít học bị lừa phỉnh lao vào cái chết vô nghĩa này:    

 

“Dọc đường đi, tôi thấy những xác người cháy đen còn nằm treo lửng lơ trên dây điện, vì họ lấy những cây rựa bằng sắt để chặt điện cao thế, nên bị điện giật chết. Không biết đây gọi là hy sinh cho việc gì? Tất cả đều do sự không học và không được đào tạo mà ra. Nếu người có học không ai dại gì mà lấy sắt để chạm vào điện cả. Trong cảnh tượng hãi hùng ấy, ai cũng ngán ngẩm; chỉ có tắc lưỡi và không nói nên lời.“ (Hương lúa chùa quê – sách đã dẫn)

 

Phải nói, nhà văn Thích Như Điển là người được đào tạo, tu luyện cơ bản, từ trong cho đến ngoài nước. Do vậy, ông sử dụng được nhiều sinh ngữ, và có kiến thức uyên bác, thâm hậu. Có lẽ, rất ít nhà văn có thể, đọc và viết văn trực tiếp bằng các thứ tiếng: Anh, Đức, Hán, Nhật như ông. Tuy học, hành đạo chủ yếu ở nước ngoài, nhưng ông vẫn giữ cốt cách giản dị, mộc mạc khi viết. Cái lời văn chầm chậm, đậm đặc từ ngữ địa phương ấy, nếu như không biết trước, chắc chắn tôi nghĩ, tác giả hiện đang trụ trì, hành đạo một ngôi chùa nào đó ở xứ Quảng. Là người xuất gia, sống xa Tổ Quốc gần hết cả cuộc đời, nhưng nhà văn Thích Như Điển vẫn dành nhiều trang viết về thời thế, tình người. Không chỉ viết về sự tàn khốc của chiến tranh, ông còn vạch trần cái bẩn thỉu, đê hèn của chính trị và con người làm chính trị. Để từ đó, cho ta thấy, dù là thời nào chế độ nào, Phật Giáo cũng là một trong những nạn nhân đau đớn và tàn bạo nhất. Hình ảnh người lính quốc gia, theo lệnh của ông Nguyễn Cao Kỳ đã giúi truyền đơn, lựu đạn vào chùa, sau đó ập vào khám xét, nhằm cản trở việc đem bàn thờ Phật ra đường. Đó là hành động thật lưu manh, và bỉ ổi. Nó làm cho người đọc liên tưởng đến thủ đoạn bắt bớ, tù đày, cướp đất, chiếm nhà người dân lương thiện của các quan tham thời nay:  

 

"...Bên ngoài chùa từng toán lính, từng toán lính nhảy qua cổng Tam quan vào chùa lục soát khắp nơi, không chừa một chỗ nào. Ho là lính quốc gia thuộc quân lực Việt Nam Cộng Hòa do chỉ thị của ông Kỳ vào tất cả các chùa Miền Trung bắt bớ, ngăn cản việc đem bàn thờ Phật ra đường theo lời chỉ đạo của Thượng Tọa Thích Trí Quang lúc bấy giờ.

 

Tôi đứng quan sát thật kỹ, đầu tiên họ nhúi cái gì đó vào lư hương chính giữa chánh điện và sau đó họ từ phía sau nhà Tổ mang một bao tời to tướng ra phía trước sân hô lớn lên, có truyền đơn. Tiếp đến họ vào những lư hương họ đào, bới mang ra nhiều lựu đạn. Đó là tang chứng trình diễn “gián điệp“ một cách thật táo bạo và lố lăng..." (Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác, trang 43)

 

Hơn một lần tôi đã viết, nếu ngòi bút của nhà văn không chọc thẳng vào cái hiện thực xã hội đương thời, thì đó chỉ là những trang viết chết. Do vậy, tính chân thậtyếu tố chính tạo nên giá trị lâu dài cho một tác phẩm văn học. Dẫu biết rằng, sự chân thật ấy sẽ không làm hài lòng nhiều người, kể cả hai bên Quốc, Cộng. Vâng, Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác, là một tác phẩm đã làm được điều đó. Và thông qua đặc tính này, người đọc thấy rõ hơn ngòi bút dũng cảm của nhà văn Thích Như Điển. Thật vậy, là một nạn nhân của sự bắt bớ, tù đày và là người trực tiếp chứng kiến sự đàn áp Phật giáo (năm 1966) nên nhà văn lý giải, chỉ có minh bạch, đức tin, tình người thì chính quyền mới thu phục được nhân tâm con người. Sự ép buộc Tôn Giáo làm công cụ, phục vụ cho một thể chế, đảng phái là một tội ác, là nguyên nhân dẫn đến cảnh tranh đấu, nồi da xáo thịt:

 

"...Đa phần thuở ấy và bây giờ nhiều người vẫn nghi Hòa Thượng Thích Trí Quang là cộng sản, nhưng tôi lại nghĩ khác. Người cộng sản có thể đội lốt một tu sĩ để hoạt động, chớ một người tu sĩ chân chính đã tin luân hồi, nhân quảnghiệp báo không thể là một người cộng sản được. Ranh giới giữa quốc cộng là chỗ ấy. Thật sự lúc ấy những người lãnh đạo quốc gia miền Nam chẳng chinh phục được lương tâm của người dân, trong đó có cả những vị lãnh đạo phật giáo, ngược lại dồn nén họ và đẩy họ vào thế bí đứng về hàng ngũ của phía bên kia. Thế nhưng điều đó họ đã lầm, cho đến sau nầy, sau ngày 30-4-1975 nhiều vị tướng tá miền Nam Việt Nam để lộ nguyên hình mình là những người cộng nằm vùng, chớ còn Phật Giáo vẫn là Phật Giáo và những người lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, như Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Hòa Thượng Thích Thiện Hạnh, Hòa Thượng Thích Tuệ Sĩ v.v... cho đến hôm nay (2005) sau 30 năm người cộng sản thống trị miền Nam, họ vẫn là những người bị tù tội... Một Tôn giáo phục vụ vụ đúng nghĩa cho tín đồ, không làm công cụ cho một chế thể độc tài, tham nhũng như vậy được. Trước năm 1975 Giáo Hội đấu tranh cho một đất nước Việt Nam như thế, thì sau năm 1975 cũng vì mục đích ấy mà thôi..." (Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác trang 45 và 46).

 

Sau cái chết tang thương của mẹ, rồi đến sự đàn áp Phật giáo vào những năm 1963- 1966, và đặc biệt biến cố 30-4-1975 đã tác động trực tiếp đến tư tưởng và ngòi bút của nhà văn Thích Như Điển. Vì vậy, có thể nói, mỗi trang viết là một bài học về đạo đứclẽ sống được vắt ra từ trái tim mẫn cảm của nhà văn vậy.

 

*Tính nhân bản, lòng vị tha.

 

Tôi chưa thể đọc, nghiên cứu hết gần bảy mươi tác phẩm đã in ấn và phát hành của nhà văn Thích Như Điển. Nhưng có thể nói, ngoài truyện ngắn, tùy bút, ký sự, dịch thuật, thì dường như Vụ Án Một Người Tu là cuốn tiểu thuyết, truyện dài đầu tay của ông, được viết vào đầu hè năm 1995 tại Canada. Nếu Đức Phật đã dạy, và đem tính nhân bản, lòng vị tha đến cho chúng sinh, thì tôi nghĩ, đến với cuốn tiểu thuyết này, nhà văn Thích Như Điển cũng đã cho người đọc cảm nhận được điều đó. Ngoài lối kể và dẫn truyện truyền thống, ta còn thấy, tiểu thuyết Vụ Án Một Người Tu phảng phất đâu đó cái hồn vía, văn phong của những Khái Hưng, Nhất Linh với: Anh Phải Sống, Hồn Bướm Mơ Tiên, Gánh Hàng Hoa…trong Tự Lực Văn Đoàn từ nửa đầu thế kỷ trước. Tuy nhiên, cùng nơi cửa Phật, nếu ở Hồn Bướm Mơ Tiên, Khái Hưng chỉ để câu chuyện tình dừng lại ở mức độ nhàn nhạt, vô thưởng, vô phạt, thì đến với Vụ Án Một Người Tu, nhà văn Thích Như Điển đã đẩy tính vị tha, lòng cao thượng vượt lên trên câu chuyện tình ấy.

Đưa ra những vấn đề này, để cho ta thấy rõ cái khuôn phép, hoàn cảnh xã hội ở nửa đầu thế kỷ trước, dẫn đến hạn chế của tác phẩm, chứ hoàn toàn không phải so sánh tài năng. Bởi, Khái Hưng hay Nhất Linh… là những nhà văn tài năng, độc đáo, tên tuổi lớn trên văn đàn Việt. .

Là người chân tu, khi viết về những điều kỵ húy, nhất là tình yêu tình iếc, trộm cướp, tù tội đâm chém, bạo lực ngay cùng giới tu hành, thì quả thật, nhà văn Thích Như Điển đã phải cởi bỏ bao quan niệm, những điều ràng buộc cũ kỹ, để viết nên một tác phẩm đầy tính hiện thực này. Phải nói, lột tả và đi đến tận cùng của sự thật này, là sự dũng cảm của nhà văn.

Thật vậy, xuyên suốt tác phẩm là nhân vật Tịnh Thường, một nhà Sư xuất thân trong một gia đình phú hộ từ miền Tây, Nam Bộ. Vượt qua được những ham muốn, dục vọng tầm thường, Tịnh Thường đi tiếp con đường mình đã chọn. Biến cố 1975, đã đưa nhà Sư trẻ Tịnh Thường đến với mảnh đất Âu- Mỹ. Trên con đường hành đạo nơi xứ người đầy sóng gió ấy, một nghi án oan đã đưa Tịnh Thường vào tù. Bảy năm tù, dường như càng tỏa sáng tính nhân bản, đức từ bi, tinh thần Bồ Tát Đạo nơi chốn Ta Bà của Tịnh Thường. Sự gian nan, khổ ải ấy, như một sự thử thách Đức tinlòng nhân hậu của kẻ chân tu vậy. Đoạn trích dưới đây, không phải là đoạn văn hay của nhà văn Thích Như Điển, nhưng đức từ bi, tính nhân bản, đầy ăm ắp trong lòng người:

“Bảy năm trôi qua một cách tẻ nhạt trong tù… Người ta thường nói "ma cũ ăn hiếp ma mới" nhưng Sư thì không. Sư đối xử với mọi người như là những chúng sanh cùng một dòng máu. Sư không phân biệt đen, trắng, đỏ, vàng, nên đã được cảm tình với rất nhiều người và ngay cả cai ngục nữa… Sư mới thấy được hết mọi khổ đau của nhân thế và chính đây là cơ hội để Sư thể hiện tinh thần Bồ Tát Đạo ở chốn Ta Bà nầy. Ngày xưa khi còn là một Du Tăng Khất Sĩ, Sư phải đi xin để độ nhật. Còn chính bây giờ và nơi đây đúng là nơi mà Sư có thể tế độ họ một cách dễ dàng. Sư han hỏi họ, chăm sóc họ, vỗ về họ. Sư giảng cho họ nghe về khổ đau, tục lụy… Hình ảnh của một nhà Sư đi ủy lạo những người bạn tù, đi săn sóc vấn đề tâm linh cho những người cùng một cảnh ngộ, đã làm cho nhiều người hoan hỷ, tán thán. Và chính Sư cũng rất vui khi thực hiện những công việc nầy…“ (Vụ án một người tu- sách đã dẫn)

Đọc và nghiên cứu, ta có thể thấy, Phật tính soi rọi, xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của nhà văn Thích Như Điển. Vì vậy, sự dung hòa giữa Đạo và đời như một chất liệu sống hình thành nên những tác phẩm của ông. Tuy nhiên, mạch viết thường bị ngắt bởi sự liên tưởng, với những lời bàn, tưởng chừng nhà văn bị lạc ra khỏi con đường đã định. Nhưng không phải vậy, tư tưởng, cái đích chuyển tải đã nối liền được mạch văn ấy. Cái đặc điểm này, tuy gây thích thú cho những ai đọc chậm, có nhiều suy nghĩ, trăn trở. Song nó lại có cảm giác nặng nề, giảm hưng phấn cho người đọc nhanh, nhất là giới trẻ ở thời công nghệ kỹ thuật số hiện nay.

Không phải chỉ những bài thuyết giảng, hay bút ký, tùy bút, mà ngay trong tiểu thuyết đầu tay Vụ Án Một Người Tu, nhà văn Thích Như Điển đã trộn Đạo vào đời, để cho ta thấy rõ, cái lẽ sống, cũng như giá trị của nó. Cái đức hy sinh cho người, cho đời, nếu không hiểu, không đi đến tận cùng của lẽ sống vô thường, thì chắc chắn không ai đủ lòng từ bi, can đảm làm được điều đó. Ta hãy đọc lại lời thoại giữa nhà Sư Tịnh Thường trước khi mất với cô y tá, một ân nhân, có tình yêu đơn phương dưới đây, để thấy rõ tấm lòng cao cả, vị tha của một bậc chân tu, và chứng minh thêm Phật tính trong mỗi một con người

“- Thưa Sư, theo em nghĩ, tụi mình sẽ giàu có lắm. Nếu Sư trở lại cuộc đời với em và chúng ta sẽ tạo lập hạnh phúc cho nhau. Và từ đó chúng ta sẽ đâm đơn kiện lại người đã bỏ tù Sư. Biết đâu chúng ta sẽ có vài triệu bạc hoạnh tài. Chúng ta tha hồ tiêu pha sung sướng.

- Cô hiểu lầm rồi. Ở đây tôi cần phân định cho cô rõ: Thứ nhất, là cho đến giờ nầy tôi vẫn không có ý định hoàn tục. Mặc dầu mọi người chung quanh đều nguyền rủa tôi. Nhưng đó là cái nghiệp riêng của tôi phải chịu mà thôi. Thứ hai, ân tôi trả, oán thù tôi sẽ tha thứ. Tôi không muốn cái lợi về mình mà kẻ khác phải bị hại. Bởi họ cũng có gia đình vợ con, bè bạn. Nếu chẳng may họ phải trả nghiệp như tôi thì gia đình họ tan nát hết. Vợ con họ khổ sở lắm. Còn tôi, chỉ có một thân một mình, đâu có để khổ lụy cho ai. Tôi chịu oan cho bao nhiêu người được sung sướng…“ (Vụ án một người tu- sách đã dẫn)

 

Tuy đọc, và viết bài cho tạp san Viên Giác do nhà văn Hòa Thượng Thích Như Điển chủ nhiệm đã gần ba chục năm, nhưng tôi mới được tiếp xúc, gặp gỡ ông vài, ba lần. Có thể nói, ngoài kiến thức, ông còn là người dễ gần, bởi cái chất mộc mạc, chân quê. Một lần, tôi chở cô con gái đi tập huấn bóng bàn cho Đội tuyển trẻ Quốc gia CHLB Đức phải đi qua Hannover. Buổi tối quay về, tôi tạt vào Chùa Viên Giác, muốn hỏi Hòa Thượng Thích Như Điển về chương trình của nhà thơ Trần Trung Đạo, từ Mỹ sang như thế nào. Loanh quanh, vào đến Chùa đã muộn. Nghĩ, Hòa Thượng đã đi nghỉ. Ấy vậy, mà nghe một nhà sư trẻ thông báo, có Đỗ Trường đến thăm, Hòa Thượng xuống đón tiếp ngay. Cử chỉ hỏi han thân mật của Hòa Thượng, nhất là về gia đình, cuộc sống cũng như công việc viết lách làm tôi tự nhiên hơn. Chuyện văn học, rồi những câu chuyện về xã hội, tôi cứ nổ đều đều. Cứ ngỡ, Hòa Thượng ít quan tâm đến những đề tài chính trị xã hội, nhưng tôi đã lầm. Chuyện gì xảy ra ngoài xã hội ông cũng biết. Có những tin tức thế sự, tôi không biết, dù rất chăm chỉ đọc báo, vậy mà Hòa Thượng vẫn biết. Cho nên, có sự việc ông hỏi, tôi cứ ngớ cả người ra. Lúc xin phép ra về, Hòa Thượng tặng tôi một thùng caton sách truyện Đạo đời đủ loại. Bảo, Đỗ Trường về nhà chịu khó đọc và nghiên cứu nhé.

Nhà thơ Trần Trung Đạo hẹn tôi và nhà thơ Phù Vân (Tùy Anh) chủ bút tạp chí Viên Giác gặp nhau ở Chùa Viên Giác, Hannover. Bởi, từ nhỏ anh đã sống với Hòa Thượng Thích Như Điển ở Chùa Viên Giác, Hội An, tình như huynh đệ. Tuy nhiên, hiện nay, người ở Đức, kẻ ở Mỹ rất ít gặp nhau.

Vợ chồng nhà thơ Trần Trung Đạo và cháu út từ sân bay Berlin về tới chùa Viên Giác đã khá muộn. Tay bắt mặt mừng, mấy anh em được Hòa Thượng Thích Như Điển dẫn thăm và lễ Chùa. Chụp ảnh xong, bụng đói meo, biết khu vực Chùa không có quán ăn, tôi hỏi vị Sư trẻ, có lẽ là đệ tử của Hòa Thượng Thích Như Điển, đứng cạnh: Thày ơi, trong bếp còn gì ăn không? Vị Sư trẻ chưa kịp trả lời, Hòa Thượng Thích Như Điển đã quay lại nói: Còn ai đói nữa không? Tất cả cười ồ cả lên, ai cũng chợt nhớ ra, từ trưa đến giờ chưa kịp ăn gì. Thế là, chị Trần Trung Đạo vào bếp. Khi mì không người lái được bê ra. Hòa Thượng bảo vị Sư trẻ, làm ít rau cải, mọi người ăn cho mát. Đang chuyện trò bằng tiếng Anh với con gái của nhà thơ Trần Trung Đạo, đột nhiên Hòa Thượng hỏi: Này, Đỗ Trường sách đọc đến đâu rồi? Thì ra, Hòa Thượng vẫn chưa quên sách tặng, có lẽ hỏi để kiểm tra mình. Tôi lẩm bẩm như vậy, và đành phải thú thật với Hòa Thượng, mới đọc xong những cuốn sách văn học, còn sách Giáo lý và sách dịch đọc, nhưng hiểu lõm bõm lắm. Hòa Thượng cười, chưa thể cảm thụ ngay được đâu, phải từ từ, rồi lúc nào đó cánh cửa sẽ được mở ra thôi…Trước khi về phòng ngủ, Hòa Thượng sợ Trần Trung Đạo đi đường xa mệt, nên dặn nhà thơ Phù Vân và tôi nhớ ngủ sớm. Chúng tôi dạ dạ, vâng vâng. Vậy mà, đóng cửa phòng, chúng tôi chuyện trò, nhoằng phát đã thấy trời gần sáng. Đường về gần ba trăm km, tôi đành từ biệt nhà thơ Trần Trung ĐạoPhù Vân ra xe cho kịp giờ làm việc.

Kể lại câu chuyện trên để thấy rằng, nhà văn Thích Như Điển không chỉ có trí nhớ tuyệt vời, mà còn ít thấy ai yêu mến, quan tâm đến những người viết văn như ông. Chẳng vậy mà Tết âm lịch năm nào, Nhà văn cũng không quên gửi bao lì xì mừng tuổi cho tôi, một kẻ viết văn tép riu này, dù ông đang ở Úc, Pháp, hay Hoa Kỳ. Vâng, cảm ơn nhà văn Thích Như Điển. Ông đã dắt tôi trở về quê hương với những cái tết của tuổi thơ khi còn cả cha lẫn mẹ đã xa, rất xa rồi.            

 

Có thể nói, đến với văn thơ, song không bao giờ Hòa Thượng Thích Như Điển nghĩ, sẽ trở thành một nhà văn. Bởi, với ông văn thơ chỉ là sự giãi bày, hay một phương tiện chuyển tải tấm lòng, tinh thần Bồ Tát Đạo đến với chúng sinh.

Và cũng chính cái tình yêu, tấm lòng nhân bản, vị tha ấy (không ngờ) đã làm nên chân dung nhà văn Thích Như Điển.

Leipzig ngày 25-12-2018

Đỗ Trường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 35716)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19814)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11781)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23298)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13433)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5868)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10673)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10438)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10116)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20960)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6228)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6873)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8926)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6050)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18192)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6397)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6775)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6582)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13091)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5903)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7923)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10257)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7910)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9903)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9111)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6013)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24599)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36507)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7768)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11587)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10083)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5260)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5454)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10050)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7916)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9397)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8688)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46644)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6933)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12420)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5842)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14601)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13089)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12525)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14652)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12530)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10996)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9672)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16765)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8507)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5997)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9990)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6406)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11405)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7092)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46825)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13540)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8446)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6890)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9219)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6213)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6942)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17953)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18284)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15902)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6990)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31336)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9605)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7730)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21704)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34244)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33423)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14278)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35747)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13038)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15805)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13718)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33140)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26511)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41493)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40432)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20117)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33774)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29720)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33763)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18941)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22815)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22549)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49075)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 12004)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11190)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22600)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18050)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15163)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22753)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16025)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13140)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19780)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12092)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
(Xem: 17718)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant