Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ 14 và Tây Tạng

10 Tháng Tư 201521:11(Xem: 9858)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ 14 và Tây Tạng

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA THỨ 14 VÀ TÂY TẠNG 



Tuệ Uyển 

 

Dalai Lama va tay tang (1)Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng là một những Đạo sư Phật Giáo vĩ đại của thế giới hiện tại, và có thể là nổi tiếng nhất trong lịch sử Phật Giáo với tầm ảnh hưởng khắp địa cầu của các ngài.  Thiền sư Nhất Hạnh đã được Mục sư Luther King đề cử giải Nobel Hòa Bình vào năm 1964, còn Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đoạt giải Nobel Hòa Bình vào năm 1989.

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma tên thật là Lhamo Dhondup như chính ngài nói: “Tôi đã sinh ra trong một ngôi làng nhỏ gọi là Taktser, ở miền Đông Bắc[1] của Tây Tạng, vào ngày năm tháng năm, năm Lợn Gỗ của lịch Tây Tạng – thế đấy, dương lịch là [ngày 6 tháng Bảy] năm 1935.” [2]  Vào khoảng ba tuổi ngài được công nhậnhậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, hóa thân của Quán Thế Âm, Đức Phật từ bi; và sau đấy được đặt tên là Jetsun Jamphel Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso. Tháng Hai năm 1940, ngài chính thức đăng quang tại Điện Potala trước sự tham dự của đông đảo Tăng chúng và các sứ thần của các quốc gia lân cận kể cả Ấn Độ và Trung Hoa Dân Quốc bình đẳng cùng với những quốc gia khác trong hàng khách danh dự, như  một bằng chứng cho việc chọn lựa và đăng quang của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 do chính phủ Tây Tạng độc lập hoàn toàn đảm nhiệm[3].

 

Vào năm 1949, sau khi lật đổ chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch và hoàn toàn làm chủ Hoa Lục, lúc Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 mới mười lăm tuổi, đến lượt Tây Tạng bị Hồng Quân Trung Cộng tấn công, trước tình hình nguy ngập ấy, dù ở tuổi vị thành niên nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã được giao toàn quyền chấp chánh mà thông thường phải đến tuổi thành niên mới nhận lãnh trách vụ này.

 

Các Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất, thứ hai, thứ ba và thứ tư không tham gia trong sinh hoạt chính trị.   Chỉ bắt đầu từ Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm ngài mới bắt đầu đảm trách ngôi vị Nguyên thủ quốc gia Tây Tạng.  Tuy vậy, mới năm trước (2011)  Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã ký một văn kiện bổ sung trong hiến pháp Tây Tạng quy định rằng từ nay trở đi các vị Đạt Lai Lạt Ma không đảm nhiệm vị trí lãnh đạo thế quyền của Tây Tạng nữa và cũng từ đấy ngài từ chối những nghi thức của lãnh tụ quốc gia.

Tây Tạng ngày xưa thường được biết với tên Thổ Phồn, ở Tây Nam Trung Hoa hay Đông Bắc Ấn Độ.  Đất nước này nằm trên một vùng đất được gọi là "nóc nhà thế giới", từng lan rộng đến các vùng ngày này còn nhiều người Tây Tạng cư trú là Thanh Hải, Cam Túc, Tứ Xuyên và Vân Nam.  Thổ Phồn có lúc rất hùng mạnh từng đánh và chiếm kinh đô Trường An của Đại Đường Trung Hoa.   Sau đấy hai bên đã ký một hòa ước hiện còn ghi lại trên cột đá chùa Jokhang (Đại Chiêu Tự):  “người dân Tây Tạng sẽ sống một cách hạnh phúc trong lãnh thổ vĩ đại Tây Tạng, và người dân Trung Hoa sẽ sống một cách hạnh phúc trong vùng đất rộng lớn của Trung Hoa.[4]” Kể từ đấy về sau trong quan hệ Hoa - Tạng hầu như không có cuộc xung đột lẫn nhau nào đáng kể.

 

Dalai Lama va tay tang (2)Nhưng khi quân Mông Cổ xâm lăng và đánh bại Đại Tống Trung Hoa, đội quân này đem quân chinh phục Đại Lý (Nam Chiếu tức là Vân Nam ngày nay) và từ đấy đổ quân vào tấn công và đánh bại quân đội Tây Tạng.  Phải nói đây là lần đầu tiên Tây Tạng và Trung Hoa cùng nằm trong một quốc giới của Đại Nguyên và họ cùng xem là như là bị thống trị bởi ngoại nhân (Việt Nam may mắn dưới sự lãnh đạo của các vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, và danh tướng Trần Hưng Đạo đã ba lần đánh thắng quân Mông Cổ, [1257-58, 1284-85, 1287-88,]  nên không rơi vào tình trạng mất nước như Đại Lý sau này).  Tuy nhiên những người thống trị Mông Cổ được các Đạo sư Tây Tạng chinh phụctrở thành những Phật tử theo truyền thống Tây Tạng cho đến ngày nay.  Khi Chu Nguyên Chương khởi binh chống lại sự thống trị của người Mông Cổ với khẩu hiệu "Phản Mông Phục Hán" và sau đó đã lật đổ được triều đình Đại Nguyên và thành lập triều Đại Minh (1368), người Mông Cổ lui về vùng sa mạc, nhưng vẫn giữ quốc hiệu là Đại Nguyên.  Đến lúc này cả Mông CổTây Tạng không nằm trong quốc giới của Đại Minh.  Đến khi người Mãn Châu xâm lấn Trung Hoa và lật đổ triều đình Đại Minhthành lập triều Đại Thanh, một lần nữa Trung Hoa của người Hán và Tây Tạng lại cùng rơi vào ách thống trị của ngoại nhân là người Mãn Châu và cả người Mông Cổ cũng nằm trong quốc giới Đại Thanh thật sự chấm dứt quốc hiệu Đại Nguyên (Việt Nam may mắn có vua Quang Trung nên không rơi vào ách thống trị của người Mãn Thanh).  Tuy nhiên triều đình Đại Thanh cũng lại là những người theo Đạo Phật Tây Tạng.  Đến khi Tôn Trung Sơn lãnh đạo cách mạng nổi dậy lật đổ sự thống trị của người Mãn Châu với khẩu hiệu "Đánh Đổ Mãn Thanh Khôi Phục Trung Hoa" và thành công với Cách Mạng Tân Hợi năm 1911.  Cùng năm ấy Mông Cổ tuyên bố độc lập tuy sau đấy bị chính quyền Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng trở lại năm 1919, nhưng đến năm 1921 dưới sự hổ trợ của Liên Sô, người Mông Cổ làm cách mạng Cộng Sản và tuyên bố độc lập một lần nữa dưới sự hổ trợ của Liên Bang Sô Viết và thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cổtồn tại như một nước độc lập cho đến ngày nay.

 

Dalai Lama va tay tang (1)Về phần Tây Tạng, ""Theo sau cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc, quân du kích địa phương người Tibet mở một cuộc tập kích bất ngờ vào đồn lính Trung Quốc đóng tại Tibet. Sau đó quan chức Trung Quốc ở Lhasa buộc phải kí kết "Hiệp định 3 điểm" chấp nhận đầu hàng và rút đi lực lượng đóng tại miền trung Tibet. Đầu năm 1913, vị Dalai Lama quay trở lại Lhasa và ra một bản tuyên cáo phát tán đi toàn cõi Tibet lên án "Ý định xâm chiếm Tibet làm thuộc địa dưới quan hệ nhà bảo trợ - thầy tu", và tuyên bố rằng, "Chúng ta là một nước nhỏ, độc lập, phụng sự tôn giáo."  Tibet và Mông Cổ ký kết một hiệp định vào năm 1913 công nhận độc lập lẫn nhau.[5]"  Như vậy cho đến cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911, người Tây Tạng tuy có lần bị sáp nhập và đế quốc Đại Nguyên và Đại Thanh chịu sự cai trị người Mông Cổ và người Mãn Châu nhưng chưa bao giờ bị sự thống trị của người Hán (cũng là một điều may mắn hơn người Việt Nam chúng ta với hơn ngàn năm Bắc Thuộc).

 

"Tibet thiết lập Văn phòng Ngoại giao năm 1942 và năm 1946 họ gửi những phái đoàn chúc mừng đến Trung QuốcẤn Độ (nhân dịp Thế chiến thứ 2 kết thúc). Phái đoàn đến Trung Quốc mang theo một lá thư gửi đến Tổng thống Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-sek) nói rằng, "Chúng tôi sẽ tiếp tục duy trì nền độc lập của Tibet như là một quốc gia cai quản bởi các vị Dalai Lama nối tiếp nhau thông qua một hệ thống chính trị-tôn giáo thực sự." Phái đoàn đồng ý tham dự một phiên họp Quốc hội Trung Quốc ở Nanjing như là quan sát viên."[6]

 

Tuy nhiên sau khi lật đổ chính quyền Quốc Dân Đảng thì hàng trăm ngàn Hồng Quân Trung Cộng rầm rộ tiến vào Tây Tạng, trong khi quân đội Tây Tạng chỉ có mười mấy ngàn người với vũ khí thô sơ nên nhanh chóng bị đè bẹp.  Sau đó hai bên đã ký kết Thỏa Ước 17 điểm thừa nhận Tây Tạng là một phần lãnh thổ của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Nhưng khi đào thoát khỏi Tây Tạng thì Đức Đạt Lai Lạt Ma và chính phủ lưu vong sau khi tham khảo với những luật gia quốc tế đã tuyên bố rằng thỏa ước 17 điểm không còn giá trị vì chính quyền Bắc Kinh đã không thi hành nghiêm chỉnh.  Hơn nữa Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nói rằng phái đoàn đại diện của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã bị thúc ép để ký thỏa ước ấy, nhưng vị trưởng đoàn đã không dùng con dấu ông đem theo từ Tây Tạng để đóng vào văn kiện mà dùng con dấu do chính quyền Bắc Kinh làm ra. Phải nói rằng so với Mông Cổ thì Tây Tạng kém may mắn hơn vì không có một cường quốc nào hổ trợ cho nền độc lập của mình như Liên Sô đã hổ trợ cho Mông Cổ.

 

Đức Đat Lai Lạt Ma thứ 14 đã đến Bắc Kinh vào năm 1954 và ở đấy khoảng nửa năm và tỏ ra rất lạc quan với hoàn cảnh ở đấy. Từ những năm 1952, ngài nói rằng chính phủ Tây Tạng đã thành lập một Hội Đồng Cải Cách hệ thống thuế vụ và cho vay.  Như vậy chúng ta có thể thấy rằng trong khoảng thời gian này tuy ở trong nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa nhưng chính quyền tự trị Tây Tạng vẫn có một số quyền hành trong khu tự trị. Nhưng theo ngài, thì từ những năm 1956-57 trở đi tình hình trở nên khắc nghiệt hơn, những cuộc cải cách dân chủ kiểu Mao mà theo như ngài không thích hợp với hoàn cảnhTây Tạng.  Và nó đã đi đến mức độ người Tây Tạng không thể chịu đựng được nữa và tổ chức phản kháng đòi Quân Đội Trung Quốc rút đi.  Tư lệnh quân Trung Cộng ở thủ đô Lhasa mời Đức Đạt Lai Lạt Ma đến doanh trại của họ nhưng người Tây Tạng tuần hành chung quanh Cung điện Mùa hè của Đạt Lai Lạt Ma là Norburlingka kêu gọi ngài không nên đi đến doanh trại quân chiếm đóngCuối cùng ngài đã quyết định bí mật rời khỏi Norburlingka và xin tị nạn ở Ấn Độ, và chỉ không lâu ngay sau đó, Norburlingka đã bị đạn pháo quân chiếm đóng san thành bình địa vì tưởng chủ nhân của tòa điện vẫn còn bên trong.

 

Những năm đầu, ngài và chính phủ Tây Tạng chủ trương độc lập, nhưng sau này ngài chủ trương con đường trung đạo, vận động đòi hỏi cho Tây Tạng được tự trị đầy đủ ý nghĩa, những điều đã được quy định trong hiến pháp nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa  nhưng không được thi hành.  Song song với việc đòi hỏi một nền tự trị đầy đủ ý nghĩa cho Tây Tạng là một cuộc đấu tranh bất bạo động, một chủ trương mà cả những người thân cận nhất như anh em của ngài không tin sẽ thành công, tuy thế ngài đã tuyên bố rằng ngài sẽ duy trì chủ trương đấu tranh bất bạo động vì một nền tự trị đầy đủ ý nghĩa của Tây Tạng cho đến hết cuộc đời của ngài.  Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã thăm những vùng tự trị ở Bắc Ý Đại Lợi[7] và những lãnh đạo nơi này cũng ra lời kêu gọi chính phủ Bắc Kinh hãy đáp ứng đề nghị và đối thoại của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Những đề nghị của Đức Đạt Lai Lạt Ma về khu tự trị Tây Tạng đã được nêu lên trong lời phát biểudiễn thuyết khi nhận giải Nobel hòa bình là " Năm Điểm cho việc khôi phục hòa bình và nhân quyềnTây Tạng.  Điều này bao gồm việc biến toàn bộ cao nguyên Tây Tạng thành một Khu vực Ahimsa, bất bạo động, một nơi tôn nghiêm của hòa bình và bất bạo động nơi con ngườithiên nhiên có thể sống trong sự an bình và hòa hiệp". 5 điểm đó là:

 

1-   Biến toàn thể Tây Tạng, kể cả những tỉnh miền đông, Kham và Amdo, thành một vùng bất bạo động (Ahimsa).

2-   Từ bỏ chính sách di chuyển dân cư của Trung Hoa.

3-   Tôn trọng những quyền căn bản và sự tự do dân chủ của người Tây Tạng.

4-   Tái lậpbảo vệ môi trường thiên nhiên của Tây Tạng.

5-   Khởi động thương thảo nghiêm chỉnh về vị thế tương lai của Tây Tạng và về quan hệ giữa người Tây Tạng và người Hán.

 

Ngay cả ở Trung Hoa hình ảnh kiểu mẫu của những khu tự trị như Hồng Công và Macau mà chính quyền Bắc Kinh rất muốn chính phủ Đài Loan chấp nhận, một quốc gia hai chế độ, nhưng chính phủ Đài Bắc đã kiên quyết cự tuyệt.

 

Ngoài việc là một nhà lãnh đạo chính phủ Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma còn là một Đạo sư Phật Giáo, mà tuệ trílòng từ bi của ngài đã lan tỏa vô cùng sâu rộng trong các tầng lớp Phật tử.  Không những  vậy, thế giới khoa học cũng vô cùng khâm phục và hợp tác nghiên cứu cùng ngài trong những lĩnh vực tâm thức.

 

Sự thành công của Đức Đạt Lai Lạt Ma như một bậc Đạo sư là sự thành công của Đạo Phật.  Nhà văn Nguyễn Tường Bách khi thăm Tây Tạng về đã nói rằng sự suy vong của Phật Giáo Tây Tạng sẽ là sự suy vong của Đạo Phật trên thế giới nói chung. Và là sự thất bại của Đại Thừa Phật Giáo Bồ tát đạo nói riêng. Việc này có đúng hay không thì chưa biết, nhưng hiện nay các trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng đã có những cơ sở vững vàng tại Ấn Độ cũng như các vị lãnh đạo của các tông phái này cũng đều ở Ấn Độ. Tuy nhiên, sự thất bại về công cuộc đấu tranh bất bạo động cho một nền tự trị đầy đủ ý nghĩa của Tây Tạng sẽ là một nguy cơ cho những quốc gia bé nhỏ chung quanh một nước khổng lồ mà sức  mạnh ngày càng gia tăng như một vị bộ trưởng quốc phòng Mỹ là Leon Penatta đã từng nói (Power raised in Asia).  Và giáo sư Colin Blakemore nói đến hội nghị Copenhagen về môi trườngthế giới: "đấy là một sức mạnh mới đang hành động trong chính trường quốc tế." Từ năm 1949, không một biên giới của một nước nào với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lại không bị  phiền toái.  Cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam năm 1979, suy cho cùng không gì khác hơn là để vẽ lại biên giới Hoa -  Việt, mà người ta nói hoa mỹ là "để dạy cho Việt Nam một bài học". Bây giờ thì những kẻ cầm quyền của chế độ Khơ me đỏ đã ra tòa án quốc tế về tội diệt chủng, thì bài học cho những kẻ tay sai ấy cũng đã rõ.  Hơn thế nữa trong mấy năm gần đây không một nước nào có vùng biển chung với Trung Hoa từ Nhật Bản, Hàn Quốc, đến Việt Nam, Phi Luật Tân và các nước Đông Nam Á đều có rắc rối với chính phủ Bắc Kinh.  Từ những hoàn cảnh như vậy, sự đấu tranh bất bạo động là có liên quan mật thiết với các nước đang gặp rắc rối với thái độ của Bắc Kinh.

 

"Khi được hỏi về vai trò của ngài trong đời sống, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường liên hệ chính ngài như một "thầy tu giản dị".  Nhiều người khác xem ngài là một trong những lãnh tụ tâm linh nổi tiếng nhất của thời đại chúng ta và một trong những học giảđạo sư Phật Giáo hàng đầu của thế giới.  Trong phạm vi những cuộc du hành rộng rãi,  ngài cũng nói cũng biện hộ cho chí nguyện của ngài trong đời sống.  Thứ nhất, ngài nguyện cố gắng để thúc đẩy cho những giá trị căn bản của con người, hay những gì ngài thường liên hệ như những "đạo đức thế tục".  Thứ hai, ngài nguyện thúc đẩy hòa hiệp và thông hiểu trong những truyền thống tôn giáo quan trọng của thế giới.  Và thứ ba, ngài nguyện đối với "vấn đề Tây Tạng", dâng  hiến đến những lợi ích của đồng bào Tây Tạng, hành động như một phát ngôn viên trong sự đấu tranh của họ vì nhân quyền, sự tự trị, và tự do rộng rãi hơn.  Bất cứ nơi nào ngài đến, Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài đã biểu hiện một sự cởi mở chân thành đến thính chúng cho lòng ân cần từ tế, từ bi, bao dungtrách nhiệm phổ quát."[8]

 

Chúng ta cầu mong sự đấu tranh bất bạo động của Đức Đạt Lai Lạt Ma vì sự tự trị đầy đủ ý nghĩa của Tây Tạng được thành công, và đấy sẽ là góp phần vĩ đại cho một thế giới hòa binh, như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói vì tôi đã lãnh giải Nobel hòa bình nên tôi có bổn phận phải hành động vì hòa bình của thế giới.

 

Đời sống của ngài như một minh chứng về những đặc trưng mà mọi người đã nghĩ về ngài và dâng tặng đến ngài, cũng như những chủ trương mà ngài đang theo đuổi, qua các phần thưởng:

 

- Đức Đạt Lai Lạt Ma với giải Nobel Hòa Bình.

- Đức Đạt Lai Lạt Ma và Huân Chương Vàng Quốc Hội Hoa Kỳ.

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma thường trích dẫn Đại sư Tịch Thiên câu: "Nếu có giải pháp thì không có gì phải lo lắng. Nhưng nếu khônggiải pháp thì lo lắng cũng không ích gì". Nói thế chứ là người bình thường không có công phu tu tập, không có trình độ thực chứng nào đó về tâm linh thì cũng không dễ mà không lo lắng. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng khi nghe kể về những nổi khổ của người Tây Tạng ở quê hương Tuyết Sơn thì ngài đôi khi rơi lệ và rất đau buồn, nhưng ngay lúc ấy ngài liền lạc quan trở lại và như ngài nói trong lời kết luận giảng luận về Thái Độ Rèn Luyện Như Tia Sáng rằng: " Chúng ta bây giờ kết luận sự truyền trao giáo huấn Thái Độ Rèn Luyện Như Tia Sáng. Đây là điều gì đấy rất lợi lạc cho tâm thức, một luận điển về những phương pháp mà nó sẽ dẫn chúng ta trở thành cực kỳ hạnh phúc. Tôi thường cảm nhận và nói với mọi người rằng tôi phải là người hạnh phúc nhất trên thế giới. Phân nửa qua vị trí của Đạt Lai Lạt Ma mà tôi có và chắc chắn rằng phân nửa khác qua thái độ rèn luyện mà tôi đã tu tập, là điều cho tôi niềm hạnh phúcnghị lực để đối diện với tất cả những hoàn cảnh khó khăn mà tôi đã gánh nặng trên đôi vai tôi. Những lượng định ngăn ngừa về giáo Pháp là những tiêu chuẩnchúng ta thật sự tiếp nhận, mà chúng ta thực tập. Tất cả chúng ta làm tốt để dâng hiến mọi nổ  lực của chúng ta cho điều  này."

 

Xin cầu nguyện cho nền hòa bình của thế giới và sự trường thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma.

 

Nam mô A Di Đà Phật

 

Tuệ Uyển     

 

Ẩn Tâm Lộ Thursday, April 02, 2015

 

Dalai Lama va tay tang (3)

Sư cô Diệu Trương, Sư cô Anila, Đức Đạt lai Lạt Ma, Tuệ Uyển, Sư cô Diệu Hương




[1] Tỉnh Amdo nay là tỉnh Thanh Hải của Trung Hoa.

[2] Theo bài "Tay Trong Tay Với Đức Đạt Lai Lạt Ma" của Perry Garfinkel.

[3] Xem "Trả lời những câu hỏi từ Hoa Lục" câu số 1.

[4] Xem Phát biểu nhận giải Nobel

[5] Lịch sử Tây Tạng

[6] giống như phần phụ giải 4

[7] Xem bài "Thăm các vùng tự trị ở Bắc Ý Đại Lợi"

[8] Trích từ lời giới thiệu về Đức Đạt Lai Lạt Ma trong quyển "Nghệ thuật hạnh phúc trong thế giới phiền não" mà Tuệ Uyển đã  và do nhà xuất bản Hông Đức ấn hành.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 763)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 731)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 746)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 744)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 633)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 830)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1213)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1383)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1102)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1446)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 913)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 813)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 917)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 935)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 898)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 927)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1061)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 885)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1030)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1036)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 956)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 970)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 891)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1061)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1004)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 930)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1041)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 965)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 898)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1000)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 934)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1190)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 964)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1045)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1216)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1651)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1211)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1290)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1155)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1010)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 972)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1000)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 852)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1533)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1399)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1377)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1317)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1409)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1364)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1510)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant