Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thấy Pháp Giới

13 Tháng Ba 202419:14(Xem: 763)
Thấy Pháp Giới

Thấy Pháp Giới

Nguyễn Thế Đăng

 
12


Pháp giới
 là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ. Vào pháp giới là do hai sự tích tập trí huệ và công đức đã đầy đủ, và thấy được những kỳ diệu trong đó cũng là do đã đầy đủ trí huệ và công đứcTrí huệ và công đức chính là Bồ đề tâm mà Đức DiLặc đã giảng rộng và tóm lược cho Đồng tử Thiện Tài trước khi cho vào lầu các. Điều này được nói rõ trong phẩm Nhập pháp giớikinh Hoa Nghiêm khi đồng tử Thiện Tài được Đức Di Lặc cho phép đi vàolầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng của ngài. Vào trong pháp giớiĐồng tử Thiện Tài thấy những gì?

Thiện Tài thấy trong lầu các này rộng lớn vô lượng, đồng với hư không. Có vô số châu báu làm đất. Vô số (a tăng kỳ) cung điện, vô số cửa lớn, vô số cửa sổ, vô số thềm bậc, vô số lan can, vô số đường sá, tất cả đều làm bằng bảy báu.

Có vô số tràng, vô số phan, vô số lọng, bày biện khắp nơi. Vô số chuỗi báu, vô số chuỗi chân châu, vô số chuỗi xích chân châu…

Lại treo vô số linh báu, thắp vô số đèn báu, trải vô số y báu, giăng vô số trướng báu, bày vô số tòa báu, vô số các hình tượng báu, vô số tượng Bồ tát báu diệu, đầy khắp mọi nơi. Có vô số các thứ chim hót tiếng hòa nhã. Có vô số hoa sen xanh báu, vô số hoa sen vàng, đỏ, trắng báu dùng để trang nghiêm. Có vô số cây báu thứ tự thẳng hàng. Có vô số ma ni báu phóng đại quang minh.

Lại thấy trong lầu các này có vô lượng trăm ngàn lầu các đẹp, đều nghiêm sức như trên. Mỗi mỗi lầu các đều rộng rãi trang nghiêm đẹp đẽ, đều đồng hư không, chẳng ngăn ngại nhau, cũng chẳng tạp loạn nhau.

Thiện Tài đồng tử ở một chỗ thấy tất cả mọi chỗ. Tất cả mọi chỗ đều thấy như vậy.”

 

Đồng tử Thiện Tài thấy lầu các của Đức Di Lặc, tức là thấy toàn bộ pháp giới, là tánh Không: “trong lầu các này rộng lớn vô lượng, đồng với hư không”, “mỗi mỗi lầu các rộng rãi trang nghiêm đẹp đẽ, đều đồng hư không, chẳng ngăn ngại nhau, cũng chẳng tạp loạn nhau.”

Đồng tử thấy toàn bộ pháp giới là tánh Không, nhưng tánh Không không phải là không có gì cả, không thấy gì cả. Pháp giới tánh Không có “vô số châu báu, vô số cung điện, vô số tràng phanvô số hình tượng Bồ tátvô số chim hót, vô số ma ni báu phóng đại quang minhvô số lầu các trang nghiêm đẹp đẽ…” Nghĩa là có vô số sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tất cả đều trang nghiêmthanh tịnhđẹp đẽ. Đây là công đức của pháp giớicông đức của lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng.

Sự tích tập trí huệ tánh Không đã hòa nhập với sự tích tập công đức để thành pháp giới đầy đủ trí huệ và công đức.

Tánh Không là nền tảng cho mọi xuất hiện sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, và mọi xuất hiện này đều trang nghiêmthanh tịnh và đẹp đẽ. Mọi xuất hiện này chính là công đức của pháp giới tánhKhông.

Như vậy, qua đoạn kinh này, có thể hiểu rõ thêm câu trong Bát nhã tâm kinh: “ Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là Không, Không tức là sắc thanh hương vị xúc pháp.” Sắc, thanh, hương…tức là Không, nghĩa là công đức xuất hiện của pháp giới tức là Không. Và Không tức là sắc, thanh, hương…, nghĩa là Không là công đức biểu hiện ra thành những hình tướng trang nghiêm thanh tịnhcủa pháp giới. Ở cấp độ cao nhất, tích tập trí huệ tánh Không và tích tập công đức là một.

Trong lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng này “có vô lượng trăm ngàn lầu các đẹp, đều nghiêm sức như trên. Mỗi mỗi lầu các đều rộng rãi trang nghiêm đẹp đẽ, đồng với hư không chẳng ngăn ngại nhau cũng chẳng tạp loạn nhau”. Đây là cảnh giới sự sự vô ngại của pháp giới, một gồm chứa tất cả, và tất cả có đầy đủ trong một, không ngăn ngại nhau, cũng chẳng tạp loạn nhau.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử thấy lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng có cảnh giới tự tại chẳng thể nghĩ bàn như vậy, sanh tâm đại hoan hỷ, hớn hở vui mừng vô lượngthân tâm mềm dịu nhẹ nhàng, lìa tất cả tưởng, trừ tất cả chướng, diệt tất cả mê lầm, chỗ thấy chẳng quên, chỗ nghe đều nhớ, chỗ nghĩ chẳng tạp, chứng nhập môn giải thoát vô ngại. Tâm vận dụng cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp.

Vừa mới đảnh lễ, do thần lực của Bồ tát Di LặcThiện Tài tự thấy thân mình ở khắp trong tất cả các lầu các, thấy đầy đủ những cảnh giới tự tại không thể nghĩ bàn.”

Thấy được pháp giới: thì thân tâm cũng trở thành pháp giới, “chỗ thấy chẳng quên, chỗ nghe đều nhớ, chỗ nghĩ chẳng tạp, chứng nhập môn giải thoát vô ngại.” Khi ấy tâm là tất cà pháp giớipháp giới sự sự vô ngại, “tâm vận dụng cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp”. Pháp giới có trong mỗi lầu các nhỏ, từng phần tử nhỏ nhất của mỗi lầu các nhỏ.

Tóm lại, khi ấy “thấy, nghe, nghĩ” hòa nhập với pháp giới sự sự vô ngại thì trở thành (“chứng nhập môn giải thoát vô ngại”) pháp giới sự sự vô ngại.

Đó là thấy Bồ tát Di Lặc lúc ban đầu phát tâm vô thượng bồ đề, với tên họ như vậy, dòng dõi như vậy, bạn lành khai ngộ khiến gieo trồng thiện căn như vậy, thọ mạng như vậy, ở kiếp như vậy, gặp Phật như vậy, ở cõi nước trang nghiêm như vậy, tu hành như vậy, phát nguyện như vậy.

Chư Phật Như Lai ấy, những chúng hộithọ mạng, thân cận cúng dường đều thấy rõ cả.

Hoặc thấy Bồ tát Di Lặc lúc ban đầu chứng được tam muội tâm từ, từ đó đến nay hiệu là Từ Thị…

Hoặc thấy cùng với chư Bồ tát nhất sanh bổ xứ khen nói môn tất cả chư Phật quán đảnh. Hoặc thấy Bồ tát Di Lặc trong trăm ngàn năm kinh hànhđọc tụng, biên chép kinh điển, siêng cầu quán sát, vì đại chúng mà thuyết pháp…”

Vào được pháp giớiđồng tử thấy tất cả hạnh Bồ tát tạo thành công đức của Đức Di Lặc cho đếnkhi ngài thành Bồ tát nhất sanh bổ xứmột đời nữa thành PhậtĐồng tử thấy tương lai Bồ tát Di Lặcđản sanh và thành đạo trong mỗi mỗi lầu các nhỏ của lầu các Trang Nghiêm Tạng:

Lại ở nơi những lầu các của đại lầu các Tỳ Lô Giá Na đại trang nghiêm tạng này, mỗi lần các đều cao rộng trang nghiêm đẹp đẽ tối thượng, trong mỗi lầu các ấy đều thấy đại thiên thế giới, trăm ức Tứ thiên hạ, trăm ức trời Đâu Suất. Mỗi mỗi đều có Đức Di Lặc giáng thần đản sanh,…, đến ngồi đạo tràng hàng phục ma quânthành Đẳng Chánh Giác, chuyển pháp luân…

Thiện Tài lại thấy thân mình ở chỗ tất cả các Như Lai ấy, cũng dự trong tất cả chúng hội ấy, nhớ giữ không quên, thông đạt vô ngại.”

Trong pháp giới Trang Nghiêm Tạng, đồng tử thấy Đức Di Lặc tương lai thành Phật. Trong pháp giới Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng, cả quá khứhiện tại và tương lai hiện hữu đồng thời. Trong đó có tất cả chư Phật và chư Bồ tátĐức Di Lặc thành Phật trong toàn bộ pháp giới, mà pháp giới ở đây là pháp giới sự sự vô ngạiĐồng tử Thiện Tài trong pháp giới sự sự vô ngại này cũng có mặt khắp, “tâm vận dụng cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp”.

Pháp giới được gọi là Trang Nghiêm Tạng, vì gồm chứa tất cả công đức của chư Phật, chư Bồ tátPháp giới tánh Không được trang nghiêm bằng tất cả các công đức của các bậc giải thoátgiác ngộ.

Pháp giới ấy được thấy ở mức vi tế cùng cực, ở mức vi trầnhạt bụi nhỏ, nên gọi là “thân vân”, thân đám mây:

Hoặc thấy Bồ tát Di Lặc nhập vào biến hóa tam muội, nơi mỗi lỗ chân lông hiện ra tất cả thân vân(thân mây) biến hóa. Hoặc hiện ra thân mây chúng rồng, thân mây dạ xoacàn thát bà…Hoặc hiện ra thân mây tất cả chúng sanh. Hoặc hiện ra thân mây tất cả chúng sanh. Hoặc hiện ra thân mây của chúng Thanh vănBồ tátNhư Lai.”

Trong pháp giới ấy có đầy đủ thánh phàm, và tất cả đều ở trong pháp giới vô ngại.

Trong pháp giới này, không những các bậc thánh mới thuyết phápmà cả đến những sự vật vô triđều thuyết pháp:

Lại nghe tất cả lưới, linh và các nhạc cụ trong tất cả các lầu các đều diễn xướng pháp âm vi diệuchẳng thể nghĩ bàn, nói đủ thứ pháp: hoặc nói phát bồ đề tâm của Bồ tát, hoặc nói tu hành các hạnh ba la mật…

Lại thấy đủ thứ hình tượng trong tất cả các gương báu. Đó là: thấy chúng hội đạo tràng của chư Phật. Hoặc thấy chúng hội đạo tràng của Bồ tát, thấy chúng hội đạo tràng của Thanh văn… Hoặc thấy thế giới lưới Nhân đà la, hoặc thấy thế giới úp, thế giới ngửa. Hoặc thấy thế giới chỗ ở của địa ngụcngạ quỷsúc sanh, hoặc thấy thế giới đầy dẫy chúng trời người…

Lại thấy trong tất cả các cột trụ báu, phóng lưới đại quang minh ma ni vương, đủ màu của tất cả quang minh… Lại thấy những chuỗi chân châu thường xuất sanh nước thơm đủ tám công đức. Chuỗi lưu ly phóng ra trăm ngàn thứ quang minh, đồng chiếu sáng khắp. Những tràng phan, lọng báu, lưới báu, tất cả đều dùng các báu để trang nghiêm.

Lại thấy hoa sen bốn màu, mỗi mỗi đều sanh ra vô lượng hoa. Trong mỗi mỗi hoa đều đều thị hiệnđủ thứ hình tượng để trang nghiêm…”

Ở trên là một số đoạn kinh nói về cái thấy của Đồng tử Thiện Tài khi vào lầu các của Đức Di Lặc. Các vị giác ngộ thấy pháp giới sự sự vô ngại chẳng thể nghĩ bàn như vậy. Sở dĩ nói là các vị giácngộ vì Đức Di Lặc là Bồ tát nhất sanh bổ xứ, trên địa thứ mười và sắp thành Phật, còn đồng tửThiện Tài cũng ở một cấp độ tương đương vì chỉ còn gặp lại Bồ tát Văn Thù để cuối cùng gặp Bồ tát Phổ Hiền là hoàn tất con đường hành hương thành Phật.

Qua các đoạn kinh trên, cùng với sự tư duy (Tư) và thiền định (Tu), người ta có thể hình dung cái thấy của các vị giác ngộ là thế nào.

Cái thấy của một vị giác ngộ là thấy toàn thể pháp giới đều giác ngộ. Tất cả, không sót chỗ nào đều trang nghiêmthanh tịnhđẹp đẽ, đầy đủ công đức chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là cái thấy của trí huệ và công đức. Như đoạn sau, kinh nói:

Bấy giờ chư thiện tri thức ấy bảo Thiện Tài rằng:

Lành thay, đồng tử! Ngươi nhìn xem những sự chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát Di Lặc chớ có nhàm mỏi.

Lúc ấy vì được sức ghi nhớ chẳng quên, vì được mắt thanh tịnh thấy mười phương, vì được trí vô ngại khéo quán sát, vì được trí tự tại của Bồ tát, vì được cái hiểu rộng lớn của các Bồ tát đã vào trí địa, nên nơi mỗi mỗi sự vật trong tất cả lầu các đều thấy vô lượng cảnh giới trang nghiêm tự tại không thể nghĩ bàn”.

 

Với hạnh Bồ tát gồm tích tập trí huệ và tích tập công đức, người ta có thể nhập vào pháp giới để thấy ra pháp giới sự sự vô ngại, “nơi mỗi mỗi sự vật trong tất cả lầu các đều thấy vô lượng cảnh giới trang nghiêm”, tùy theo mức độ sâu cạn của “trí địa” của mình. Như thế vũ trụ này sẽ được dần dần thấy ra là pháp giới tánh Không trang nghiêm của các bậc giải thoátgiác ngộ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 830)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 783)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 748)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 758)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 758)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 659)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 919)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1238)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1408)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1142)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1463)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 928)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 834)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 938)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 956)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 929)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 956)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1080)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 905)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1047)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1049)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 971)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1009)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 925)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1080)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1026)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 945)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1056)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 977)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 911)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1014)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 951)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1201)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 983)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1071)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1229)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1667)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1236)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1310)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1180)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1035)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 995)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1026)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 873)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1546)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1425)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1401)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1342)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1443)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1389)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant