Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kệ tụng Đản sanh Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn

25 Tháng Năm 201520:21(Xem: 16427)
Kệ tụng Đản sanh Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn

KỆ TỤNG ĐẢN SINH ĐỨC THÍCH CA MÂU NI THẾ TÔN


Khi đức Thích tôn đản sinh, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất, nói bốn câu kệ. Các kinh điển ghi chép không giống nhau.

Có khá nhiều luận giải của các nhà học giả, luận sư, giải thích theo nhiều xu hướng và trường phái khác nhau. Do đó, ở đây chúng tôi thấy không cần thiết phải có thêm một bản chú giải khác. Nên chúng tôi chỉ xin giới thiệu một vài kệ tụng đản sinh tiêu biểu trong các kinh điển, để chúng ta có một cái nhìn khái quát sự kiện đản sinh của Đức Thích Ca Mâu Ni.

Kinh Trường A - hàm quyển 1: Trên trời và dưới trời, chỉ có ta tôn quí; Sẽ cứu độ chúng sinh, qua sống già bệnh chết[1].

Kinh Tu hành bản khi quyển thượng: Trên trời và dưới trời, duy có ta tôn quí; Ba cõi đầy khổ đau, ta sẽ được yên ổn[2].

Đại đường tây vực kí quyển 6: Trên trời và dưới trời, một mình ta tôn quí; Từ đời này trở đi, không còn sinh ra nữa[3].

Ngoài ra, trong kinh Quá khứ hin tại nhân quả quyển 1, kinh Phdiu quyển 2 v.v.. tuy có những câu văn mà ý nghĩa tương đương với kệ Đản sinh, nhưng không phải thể tài kệ tụng. Kệ đản sinh được dùng một cách phổ biến ở Trung Hoa và một số nước ảnh hưởng truyền thống Phật giáo Trung Hoa hiện nay là: Trên trời và dưới trời, duy có ta tôn quí; Ba cõi đều khổ đau, ta sẽ được yên ổn (Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn; Tam giới giai khổ, Ngã đương an chi).”

Lời tuyên bố này, được ghi chép lại trong rất nhiều kinh điển thuộc Hán tạng:

Theo kinh Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh t" (Trên trời dưới tri chỉ mình Ta là tôn quý. Việc cn yếu của ta là độ chúng sanh thoát ly sanh già bệnh chết - Kinh Đại Bổn Duyên)

Kinh Tu Hành Bản Khi ghi "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Tam giới vi khổ, ngô đương an chí" [4] (Trên trời dưới tri chỉ có Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều kh, Ta sẽ làm cho chúng sanh an lạc)

Kinh Thái Tử Thy ng Bn Khi chép "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Tam giới giai khổ, hà khả lc gi?"[5](Trên trời dưới tri chỉ có Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều kh, ai là người có thể đem lại san lc ?).

Kinh PhDiu nói "Thiên thượng thiên hạ vi thiên nhân tôn"[6] (Trên trời dưới trời Ta là bậc tôn quý của trời và người).

Kinh DXut Bồ Tát Bản Khi thut "Thiên thượng thiên hạ, tôn vô quá ngã giả"[7] (Trên trời dưới tri bậc tôn quý nhất không ai bằng Ta).

Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả ghi "Ngã ư nhất thiết thiên nhân chi trung tối tôn tối thắng. Vô lượng sanh tử ư kim tận h"[8] (Ta, đối vi tt cả hàng trời người là bậc tối tôn ti thắng. Vô lượng sanh ttnay chm dt).

Kinh Pht Bn Hnh Tp ghi "Thế gian chi trung, ngã vi tối thượng. Ngã tùng kim nhật, sanh phần dĩ tận"[9](trong thế gian, Ta là bậc cao nht. Tnay, vic sanh tcủa Ta đã đoạn tn).

Ngoài ra, còn nhiều kinh sử khác như : Pht Sở Hành Tán[10], Đại Đường Tây Vực Ký quyển sáu, Hu BTNi Da Tp Squyển hai mươi v.v.. đều có thuật lại sự kiện Đản sanh. Tuy có khác biệt đôi chút về phần cuối kệ tụng, song đa phần vẫn thống nhất ở phần đầu kệ : "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn".

Ở đây, tôi xin giới thiệu thêm thi kệ được ghi chép rất cụ thể hơn, nằm trong Phương Quảng Đại Trang Nghiêm kinh, do ngài Đại Bà Đa La dịch vào đời nhà Đường như sau:

“ Khi sinh ra, ngài bước đi về Phương đông có bảy hoa sen đỡ chân, lúc bấy giờ ngài không có chút nào sợ hãi, nói mạch lạc như sau:

Ngã đắc nht thiết thiện pháp

Đương vị chúng sinh thuyết chi

Dịch:

Tôi sẽ thành tựu nht thiết thiện pháp

Và sẽ vì chúng sinh mà nói pháp.

Ngài lại đi bảy bước về phương Nam và nói:

Ngã ư nhân thiênng thọ cúng dường

Dịch:

Tôi xứng đáng nhận sự cúng dường, của chư thiên và loài người.

Ngài lại đi bảy bước về phương Tây và nói:

Ngã ư chúng sinh tối tôn, tối thng

Thtc thị ngã, tối hậu biên thân

Tận sanh lão bệnh t

Dịch:

trong thế gian, Tôi là tối tôn,

Tôi là tối thắng, thân cuối cùng của tôi,

Là chấm dứt sanh, lão, bệnh t.

Ngài lại đi bảy bước về phương bắc và nói:

Ngã đường ư nhất thiết chúng sinh trung vi thượng thượng

Dịch:

Tôi sẽ ở nơi vô số chúng sinh,

Làm bậc vô thượng thượng

Ngài lại đi bảy bước xuống hạ phương và nói:

Ngã đương hàng phục nht thiết ma quân,

Hu diệt địa ngc chi mnh hỏa đảnh,

Shu khcựu, thi đại pháp vân

đại pháp vũ, đương tận chúng sinh

Tn than lc.

Dịch:

Ta sẽ hàng phc hết thảy ma quân,

Li dit trnhững tác cụ khổ đau, như lửa dữ…

Ở nơi địa ngc, thi thiết mây pháp lớn

Tuôn trào mưa pháp lớn,

Khiến chúng sinh đều được an lc

Ngài lại đi bảy bước nhìn lên thượng phương và nói:

Ngã đương vị nht thiết chúng sinh chi sở chiêm ngưỡng

Dịch:

Tôi sẽ làm người cho hết thảy chúng sinh chiêm ngưỡng.

Lúc Thế Tôn nói vừa xong, âm thanh của ngài vang khắp ba ngàn thế giới.”

Đọc tới đây, chắc không ít người sẽ thắc mắc. Tại sao Đạo Phật chủ trương vô ngã “Như Thế Tôn ngôn: Nhứt thiết pháp vô ngã?” (Bách Pháp Minh Môn Luận, Thế Thân); Như lời Thế Tôn nói: Tất cả Pháp là Vô ngã? Vậy tại sao khi ngài đản sinh, câu nào ngài nói, cũng có đề cập đến “ngã” hay duy ngã độc tôn 唯我獨尊? Chỉ có ta là tôn quí hơn hết. Căn cứ theo kinh Đại bản trong Trường A-hàm ghi lại sự kiện đức Thế tôn sinh ra từ hông bên phải của mẫu hậu Ma da phu nhân, sau khi xuống mặt đất, Ngài đi bảy bước, nhìn khắp bốn phương, giơ một tay lên nói[11]: Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Tiếng Anh dịch câu này là: Above Heaven and under Heaven I am alone and worthy of honor (Sakyamuni) hay In the heavens above and (earth) beneath I alone is the honoured one: Trên trời, dưới trời, chỉ có ta là đáng kính trọng, tôn kính. Thích Môn Qui Kính Nghi quyển thượng giải thích rằng, vì ở

Ấn độ thời bấy giờ có 96 thứ ngoại đạo đều tự gọi là Đại thánh, là thầy trời và người, vì muốn khiến tà về chính nên đức Thế tôn thị hiện tướng đi bảy bước, đưa tay lên trời mà nói: “Duy ngã độc tôn” để biểu thị trong ba cõi chỉ có Phật là tôn quí, sẽ cứu độ tất cả trời, người dứt khổ sống chết, khiến hết thảy chúng sinh đều được yên vui, mà ngoại đạo không thể có khả năng làm như vậy được. Còn các tà đạo khác chẳng phải là chỗ để chúng sinh nương cậy, vì thế nên nói: Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn.

EDWARD CONZE trong một bài viết, đã giải thích như sau: “Trên trời dưới trời, riêng ta cao nhất. Trên trời dưới trời riêng ta tôn quý nhất.” Đó là lời Đức Phật lúc Ngài mới giáng sanh từ bên sườn phải Hoàng Hậu Ma Da và bước bảy bước đầu tiên. Đây không phải là một câu nói cao ngạo mà là câu nói để chứng tỏ rồi đây Ngài sẽ hiểu được sự đồng nhứt của bản tánh thật của toàn vũ trụ, chứ không phải là bản ngã theo thế tục. Lời tuyên bố nầy cũng là thường pháp của chư Phật ba đời. Đối với Đại Thừa, Ngài là tiêu biểu cho vô lượng chư Phật trong vô lượng kiếp[12].

Tóm lại, có khá nhiều dị biệt về văn bản và chú giải thi kệ đản sinh, mà ở trên chúng Tôi đã trình bày vài điểm tiêu biểu, góp phần giúp chúng ta, mỗi người có thể tự hiểu thêm về ý nghĩa hay mục đích thị hiện của Đức Phật. Để thành kính dâng lên, tưởng nhớ vị Cha lành, nhân lần đản sinh thứ 2639 của Ngài. Và cũng để nhắc nhở chúng ta nhau tinh tấn tu tập, ngõ hầu báo đáp công ơn giáo hóa trong muôn một.

Mùa Phật đản 2559,

Phước Nguyên

 



[1] Cf. Trường I, Đại 1, tr.4c.

[2] Đại chánh 3, tr. 463c.

[3] Đại chánh 51, tr. 902ab.

[4] Đại Chánh 3, tr. 463c.

[5] Ibid, tr. 473c.

[6] Ibid, tr. 494a.

[7] Ibid,tr . 618a

[8] Ibid, tr. 625a

[9] Ibid, tr.687b.

[10] Đại chánh 4, tr.1b.

[11]  Cf. Trường I, Đại chánh 1, tr.4c.

[12] Cf. Buddhist Thought in India, Edward Conze, London, 1962.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 230)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 258)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 289)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 571)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 563)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 501)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 639)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 565)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 552)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 560)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 680)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 727)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 767)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1318)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 871)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1033)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 798)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 931)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1073)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1326)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 921)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 909)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1359)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1107)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1470)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1358)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1176)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1215)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1581)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant