Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cái Thấy

11 Tháng Mười 201607:43(Xem: 7871)
Cái Thấy

CÁI THẤY

Nguyễn Thế Đăng 

Cái Thấy

 

“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.

Bấy giờ, Đức Phật nơi tướng lông trắng giữa hai lông mày, phóng ánh sáng chiếu khắp cả một vạn tám ngàn thế giới phương Đông, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến trời Sắc Cứu Cánh. Chúng ở thế giới này đều thấy sáu loài chúng sanh ở các cõi kia”.  (Phẩm Tựa, kinh Pháp Hoa).

Ánh sáng chiếu khắp này là ánh sáng của Phật tánh. Ánh sáng ấy khiến tất cả “thông làm một cõi nước Phật” (Phẩm Hiện Bửu tháp, kinh Pháp Hoa). “Chúng ở thế giới này đều thấy sáu loài chúng sanh ở các cõi kia”, đều thấy tức là ai cũng thấy, ai cũng có và cũng ở trong ánh sáng của Phật tánh này. Chúng sanh đều có ánh sáng của Phật tánh này nhưng chưa biểu hiện ra được. Đức Phật đã chứng đắc hoàn toàn ánh sáng Phật tánh , nên biểu lộ ra để khai thị cho chúng sanh ngộ nhập cái vốn có sẵn nơi mỗi người.

“Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, nên tất cả chúng sanh đều có ánh sáng Phật tánh, đều ở trong ánh sáng ấy, nên chúng sanhthế giới này đều thấy sáu loài chúng sanh ở các cõi kia. Trong ánh sáng Phật tánh này, tất cả các cõi và chúng sanh thông làm một.

Đức Phật phóng ánh sáng chiếu khắp cả để hiển bày Trí như tấm gương sáng tròn lớn (Đại viên cảnh trí), tức là Phật tánh sáng khắp. mà chúng sanh chúng ta ai cũng có và sống ở trong đó. Trong tấm gương sáng ấy, các cái được thấy, các bóng trong gương và các người thấy đều thông nhau “làm một cõi nước Phật”, làm một với tấm gương. Cho nên thấy không chỉ là các bóng trong gương , mà phải thấy chính tấm gương, nói theo kinh Pháp Hoa, là thấy “thật tướng của tất cả các pháp”.

Trong Phật tánh tròn sáng hay Trí như tấm gương sáng tròn lớn này, tất cả thông làm một, tất cả đều bình đẳng vì đồng một tánh, đây là Bình đẳng tánh trí. Các hình bóng khác nhau hiện ra, nhưng cùng nằm trong một nền tảng, một bản tánh là tấm gương, trí nhìn thấy sự khác biệt nhưng không khác biệt là Diệu quan sát trí. Cuối cùng là sự hoạt động, sự thành tựu công việc trong thế giới khác biệt mà không khác biệt là Thành sở tác trí.

Phóng ánh sáng lớn thông làm một cõi nước Phật, tấm gương sáng tròn lớn này là Nền tảng chung, Bản tánh chung của chư Phật, chư Bồ-tát và của tất cả chúng sanh. Nền tảng ấy là Pháp thân, là Phật tánh, là Như Lai tạng… Thực hành là thấy trực tiếp nền tảng ấy, và nhập sâu vào cho đến khi tấm gương sáng ấy mở khắp đến vô biên, ánh sáng tròn đầy viên mãn và gồm chứa cả ba trí kia.

Kinh nói trong đoạn kế tiếp:

“Lại thấy chư Phật ở các cõi kia và nghe chư Phật ấy thuyết kinh pháp. Cũng thấy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ, những người tu hành đắc đạo ở các cõi kia.

Lại thấy các Đại Bồ-tát, dùng thảy thảy nhân duyên, thảy thảy tín giải, thảy thảy tướng mạo, hành bồ-tát đạo. Lại thấy các Đức Phật nhập Niết-bàn, các đệ tử lấy xá-lợi Phật dựng tháp bảy báu”.

Trong tấm gương tròn sáng ấy có đủ chúng sanh sáu cõi, bốn chúng, cho đến các Đại Bồ-tát, chư Phật. Thấy các Đại Bồ-tát đang hành Bồ-tát đạo, nghe chư Phật đang thuyết pháp, đây là cái thấy hiện tại. Thấy các Đức Phật đã nhập Niết-bàn, các đệ tử xây tháp bảy báu để cất giữ xá-lợi, đây là cái thấy về quá khứ. Trong tấm gương ấy chỉ có một vị hiện tại trùm khắp, tất cả quá khứ hiện tại tương lai đều ở trong đó.

Thấy sáu loài chúng sanh ở các cõi kia, chư Phật thuyết pháp, các Đại Bồ-tát hành Bồ-tát hạnh…, cái thấy như tấm gương tròn sáng này bao gồm trong nó tất cả không gian. Thấy các Đức Phật đã nhập diệt, cái thấy ấy bao gồm trong nó tất cả thời gian. Tóm lại tất cả không gian thời gian, tất cả vũ trụ đều in hình trong tấm gương tròn sáng  cũng là “thật tướng của tất cả các pháp”. Cái thấy như tấm gương tròn sáng ấy là của chung, từ chúng sanh cho đến chư Phật, có điều chúng sanh thì vì phiền não chướngsở tri chướng do mình tự tạo nên bị che lấp hoặc chỉ thấy được ít phần.

Cái thấy ấy, mà Duy thức tông gọi là Đại viên cảnh trí, kinh Lăng-già gọi là Viên thành thật tánh, Kinh Lăng Nghiêm gọi là tánh thấy, thông tất cả không gianthời gian làm một. Đây là cái thấy vẫn tiềm ẩn nơi mỗi chúng sanh, cho nên kinh Pháp Hoa khai thị cho chúng ta ngộ nhập cái thấy “thật tướng của tất cả các pháp” này.

Cái thấy ấy là vô ngại: “…ở thế giới này đều thấy sáu loài chúng sanh ở các cõi kia”; không có trung tâm vì “…tất cả đều thấy…”; không phân biệt các tướng khác nhau vì “ánh sáng lớn” thì chiếu sáng đồng đều khắp cả, “…từ địa ngục A-tỳ đến trời Sắc Cứu Cánh”; không có điểm quy chiếu, nên đó là cái thấy khách quan, không trụ chấp, thiên lệch. Tóm lại, đó là cái thấy thật tướng của tất cả các pháp. Các pháp xuất hiện từ thật tướng đó và tiêu tan trong thật tướng đó.

Sự tin hiểu Pháp Hoa là tin và hiểu rằng chúng sanh chúng ta luôn luôn ở trong cái thấy thấu suốt trùm khắp vô ngại ấy, luôn luôn ở trong ánh sáng của “thật tướng của tất cả các pháp”, tức là tấm gương tròn sáng này. Trong tấm gương tròn sáng này, chúng ta học tập thấy theo Bồ-tát Di-lặc, thấy tất cả các bóng đều là tấm gương, nói cách khác, thấy tất cả tướng là tánh,

Thấy sáu nẻo sanh tử luân hồi đồng một màu sắc vàng, đồng một vị Phật tánh:

Ánh sáng chặng mày

Soi suốt phương Đông

Vạn tám ngàn cõi

Đều như sắc vàng.

Từ ngục A-tỳ

Đến trời Hữu đảnh

Trong thế giới ấy

Sáu loài chúng sanh

Các nẻo sanh tử

Nghiệp duyên thiện ác

Thọ báo tốt xấu

Ở đây đều thấy...

Thấy chư Phật và hoạt động độ sanh của các Ngài:

Lại thấy chư Phật

Thánh chúa Sư tử

Diễn nói kinh điển

Vi diệu đệ nhất…

Thấy các Bồ-tát đang hành Bồ-tát hạnh:

Thưa ngài Văn-thù

Tôi ở tại đây

Thấy nghe như vậy

Ngàn ức sự việc

Như thế rất nhiều

Nay lược nói ra:

Tôi thấy cõi kia

Hằng sa Bồ-tát

Thảy thảy nhân duyên

Mà cầu Phật đạo.

Hoặc hành bố thí

Vàng bạc san hô

Vui vẻ bố thí

Hồi hướng Phật đạo…

Tôi thấy các vua

Qua đến chỗ Phật

Hỏi đạo vô thượng

Bèn bỏ nước vui

Cung điện thần thiếp

Cạo sạch râu tóc

Mả mặc y pháp.

Hoặc thấy Bồ-tát

Hiện làm Tỳ-kheo

Một mình yên tịnh

Vui tụng kinh điển

Lại thấy Bồ-tát

Dũng mãnh tinh tấn

Vào nơi núi sâu

Tư duy Phật đạo…

Lại thấy Bồ-tát

Ở rừng phóng quang

Cứu khổ địa ngục

Khiến vào Phật đạo.

Lại thấy Phật tử

Chưa từng ngủ nghỉ

Kinh hành trong rừng

Siêng cầu Phật đạo…

Lại có Bồ-tát

Giảng pháp tịch diệt

Thảy thảy lời dạy

Vô số chúng sanh.

Hoặc thấy Bồ-tát

Quán tánh các pháp

Không có hai tướng

Giống như hư không…

Đây là cái thấy tất cả phàm thánh đang làm Phật sự , đang hành hạnh Bồ-tát để siêng cầu Phật đạo, và tất cả những hoạt động ấy đều nằm trong chính Phật đạo, trong chính Phật tánh. Cái thấy này thấy tất cả đều thanh tịnh vì tất cả đều đang hoạt động trong Phật pháp hay trong Pháp thân Phật.

Cái thấy này là sự hợp nhất của trí huệtừ bi, nghĩa là mở rộng khắp vũ trụ đồng thời thông tất cả làm một.

“Ở đây” và “tại đây”, cái thấy phổ quát ấy (Bồ-tát Phổ Nhãn, kinh Viên Giác) hiện có ở đây và lúc này. Tin Pháp Hoa là tin hiện giờ và tại đây chúng ta đang ở trong cái thấy ấy. Và học Pháp Hoa là học cái thấy này. 

 Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 251

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3506)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7358)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4531)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4583)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7371)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2977)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12250)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4009)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3819)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4236)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3704)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5085)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6709)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4031)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4143)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5354)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3805)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4551)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3565)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3945)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4404)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5401)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3851)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3958)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3882)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4839)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4539)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4280)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3862)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4656)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4220)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6126)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4618)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4969)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4206)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4849)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5681)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3665)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4060)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4602)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5299)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3154)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4775)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4567)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4308)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4758)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4509)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4612)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7251)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5227)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5017)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4614)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5642)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5290)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4169)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6033)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4726)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4893)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5500)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5635)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant